Thứ hai 08/12/2025 00:50
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề pháp lý về quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Bài viết phân tích một số khái niệm về quyền tài sản, trên cơ sở đó nhận diện các quyền tài sản là một dạng tài sản. Bên cạnh đó, bài viết tập trung phân tích các quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015, phân biệt quyền tài sản là một loại tài sản với quyền tài sản chỉ là một vật quyền, đặc biệt chỉ ra sự khác biệt giữa loại tài sản này và các quyền khác đối với tài sản.

Bài viết phân tích một số khái niệm về quyền tài sản, trên cơ sở đó nhận diện các quyền tài sản là một dạng tài sản. Bên cạnh đó, bài viết tập trung phân tích các quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015, phân biệt quyền tài sản là một loại tài sản với quyền tài sản chỉ là một vật quyền, đặc biệt chỉ ra sự khác biệt giữa loại tài sản này và các quyền khác đối với tài sản.

Quyền tài sản (QTS) là một khái niệm có nhiều quan điểm khác nhau, việc phân biệt QTS là một dạng tài sản với các quyền khác đối với tài sản nói chung theo nghĩa rộng (vật quyền) và với các quyền khác đối với tài sản theo luật thực định (được luật thực định ghi nhận cụ thể) không phải lúc nào cũng dễ dàng. Sự biểu hiện đa dạng của các vật quyền trên tài sản tạo ra ranh giới mong manh trong sự phân định QTS là một loại tài sản với các vật quyền khác không là đối tượng tài sản. Bên cạnh đó, trong xã hội công nghệ hiện đại, với sự xuất hiện ngày càng nhiều loại tài sản mới dưới dạng QTS đòi hỏi nhà làm luật cần có những quy định kịp thời để điều chỉnh các giao dịch liên quan đến các tài sản mới này. Do vậy, việc làm rõ các vấn đề nêu trên về QTS là rất cần thiết.

1. Nhận diện quyền tài sản là một loại tài sản

Xét về mặt khoa học pháp lý thì chưa có một khái niệm chính thống về QTS. Hiện nay đang tồn tại những quan điểm khác nhau về QTS.

Có quan điểm cho rằng, “quyền tài sản có thể được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các quyền và lợi ích của chủ thể trong việc chi phối, kiểm soát tài sản gồm chủ sở hữu và người có quyền khác với tài sản”[1]. Qua đây, có thể thấy, ý kiến này nhìn nhận QTS theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm quyền sở hữu mà bao gồm bất cứ quyền và lợi ích nào khác có giá trị kinh tế và thuộc về một chủ thể nhất định.

Theo Giáo trình của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “quyền tài sản là một dạng tài sản đặc thù, không tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, là một loại quyền dân sự có nội dung kinh tế, có thể trị giá được bằng tiền, do chủ thể có quyền tự mình thực hiện hoặc yêu cầu người khác thực hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của người có quyền”[2]. Định nghĩa này đã khái quát dấu hiệu của QTS ở khía cạnh là một dạng tài sản, đó là quyền dân sự có tính chất vô hình và có thể trị giá được bằng tiền. Như vậy, dù không thể hiện tường minh, nhưng khi xem xét ở khía cạnh quyền, QTS theo định nghĩa chỉ bao gồm quyền sở hữu (do là một dạng tài sản) đối với những thứ vô hình, không bao hàm các quyền và lợi ích khác, tức những vật quyền chưa được xem là tài sản. Định nghĩa cũng nêu lên cách thức tác động của chủ thể có QTS là có thể tự mình thực hiện quyền (quyền đối vật) hoặc yêu cầu người khác thực hiện (quyền đối nhân).

Tại Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 105 đã khẳng định QTS là một loại tài sản và được cụ thể hóa tại Điều 115 như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Định nghĩa đã không chỉ ra đầy đủ những đặc trưng để nhận diện tài sản ngoài dấu hiệu “trị giá được bằng tiền”, không giúp phân biệt được QTS là một loại tài sản và các quyền khác đối với tài sản. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xây dựng các quy định về các quyền khác đối với tài sản bên cạnh quyền sở hữu đã cho thấy một bước tiến mới trong chế định tài sản nói chung, QTS nói riêng.

Một QTS như thế nào thì được xem là tài sản? Theo một định nghĩa về tài sản trong quyển Deluxe Black‘s Law Dictionary, “tài sản là một từ để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu”[3]. Với quy định hiện hành ở Việt Nam, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt[4]. Như vậy, một thứ là đối tượng của quyền sở hữu có nghĩa là thứ đó có thể được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt bởi một chủ thể nào đó[5]. Ở nhiều nước trên thế giới, quyền sở hữu gồm quyền sử dụng và quyền định đoạt, việc chiếm hữu tài sản được pháp luật các nước quy định như là một tình trạng thực tế đối với tài sản[6]. Theo học thuyết của Harold Demsetz và thực tiễn đã cho thấy, một QTS có thể được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau. QTS có thể được nhiều người khác nhau thực hiện và trong những trường hợp cụ thể, “việc thực hiện các quyền trên không có ý nghĩa và thích hợp cho việc xác lập quyền sở hữu”[7]. Từ đó, với cách nhìn này cho phép chúng ta lý giải việc các quyền thế chấp, cầm cố, chuyển nhượng, ưu tiên thanh toán, truy đòi tài sản và các quyền khác ở mức độ nào đó có thể hiểu có giá trị kinh tế nhưng không được xem là tài sản.

Bên cạnh đó, việc xác định các quyền nào là đối tượng của quyền sở hữu còn phụ thuộc vào các nhà lập pháp của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, theo pháp luật Việt Nam, quyền hưởng dụng không được coi là đối tượng của quyền sở hữu, đó là những quyền được xác lập trên tài sản của người khác, đó là một bộ phận trong các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản mà không được tách ra thành một tài sản độc lập với đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu; người có quyền hưởng dụng không được ghi nhận quyền được bán, cầm cố hoặc thế chấp quyền hưởng dụng[8] nên chủ thể không thể thực hiện quyền này[9]. Tuy nhiên, theo pháp luật Pháp, quyền hưởng dụng cũng là một quyền được xác lập trên tài sản của người khác, nhưng luật của Pháp đã khẳng định người có quyền hưởng dụng có thể bán quyền hưởng dụng, điều này cho thấy, quyền hưởng dụng bản thân nó cũng là đối tượng của quyền sở hữu, là một tài sản[10]. Hoặc theo pháp luật Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản dưới dạng QTS, nhưng theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, quyền sử dụng đất là một quyền năng trong quyền sở hữu đất đai.

2. Quyền tài sản và các quyền khác đối với tài sản theo Bộ luật Dân sự năm 2015

Mặc dù Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định QTS là “quyền trị giá được bằng tiền” nhưng không phải bất cứ quyền nào trị giá được bằng tiền cũng được xem là đối tượng tài sản, nói cách khác là không xác lập cho chủ thể quyền được quyền sở hữu đối với QTS đó mà thuần túy chỉ là một vật quyền, là một bộ phận của quyền sở hữu. Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận ba loại vật quyền gọi là “quyền khác đối với tài sản”, là những quyền của chủ thể được xác lập trên tài sản “thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác” gồm quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề. Đây là những quyền được tách ra từ quyền sở hữu để trở thành quyền độc lập[11]. Nổi bật là quyền hưởng dụng và quyền bề mặt là những quyền có thể định giá được thành tiền và có thể dễ dàng chuyển giao trong giao lưu dân sự[12].

Đối với quyền bề mặt, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận quyền của chủ thể có quyền bề mặt thông qua quy định nội dung của quyền bề mặt tại Điều 271, bên cạnh việc tự mình khai thác sử dụng bề mặt, cũng như có quyền sở hữu tài sản được tạo ra từ việc khai thác, sử dụng này, người có quyền bề mặt còn có thể chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền bề mặt. Như vậy, chủ thể của quyền bề mặt có thể chuyển quyền sở hữu tài sản và quyền khai thác mặt nước, mặt đất, lòng đất cho người khác thông qua các giao dịch như mua bán, tặng cho, thế chấp, trao đổi tài sản. Đối với quyền hưởng dụng, theo Điều 261 Bộ luật Dân sự năm chỉ cho phép người có quyền hưởng dụng cho thuê quyền hưởng dụng. Đồng thời, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã quy định chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi “trong phạm vi quyền được quy định” tại Bộ luật này, luật khác có liên quan. Trong khi đó, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng “không được trái với quy định của luật”[13]. Điều này cũng đồng nghĩa người có quyền hưởng dụng không thể chuyển nhượng, chuyển đổi hay thế chấp quyền hưởng dụng do không được luật quy định. Quyền hưởng dụng có thể chuyển giao khá dễ dàng, cách thức xác lập quyền tương tự như quyền bề mặt nhưng luật không cho phép chuyển giao như quyền bề mặt. Khác với Việt Nam, theo pháp luật Pháp, quyền hưởng dụng cũng là một quyền được xác lập trên tài sản của người khác[14], nhưng luật của Pháp đã khẳng định mạnh mẽ quyền của người hưởng dụng không chỉ có thể cho thuê quyền hưởng dụng mà thậm chí có thể bán quyền hưởng dụng[15]. Thiết nghĩ, pháp luật Việt Nam cũng nên ghi nhận quyền định đoạt của chủ thể có quyền hưởng dụng như là chủ sở hữu một tài sản độc lập, tức có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố quyền hưởng dụng.

Có thể thấy, đối với quyền hưởng dụng, quyền đối với bất động sản liền kề, luật quy định quyền của chủ thể khá hạn chế, ví dụ, chủ thể của quyền hưởng dụng có thể cho thuê quyền hưởng dụng và chỉ được hưởng dụng trong thời gian nhất định; hoặc quyền đối với bất động sản liền kề sẽ được chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng bất động sản có quyền đó, chủ thể có quyền đối với bất động sản liền kề hoàn toàn không thể định đoạt quyền này một cách độc lập. Tuy nhiên, đối với quyền bề mặt, luật đã ghi nhận chủ thể quyền có thể chuyển giao quyền bề mặt, điều đó được hiểu chủ thể của quyền bề mặt có quyền định đoạt quyền bề mặt theo ý chí của mình[16]. Do đó, mặc dù được tách ra từ quyền sở hữu, nhưng với quyền năng của chủ thể mang quyền bề mặt, ở một mức độ nhất định, nhà làm luật đã xem quyền bề mặt là đối tượng của quyền sở hữu, là một loại tài sản dưới dạng QTS, mặc dù nó được tách ra từ một tài sản khác là quyền sử dụng đất. Hoặc cũng có thể hiểu nhà làm luật đã quy định quyền này như một ngoại lệ, đặc quyền của quyền khác đối với tài sản. Điểm khác biệt so với các chủ sở hữu khác là chủ thể của quyền bề mặt chỉ có quyền này trong một thời hạn nhất định.

3. Xác định phạm trù quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Như đã trình bày, QTS theo nghĩa rộng có thể bao gồm quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản (gọi ngắn gọn là quyền đối với tài sản hay vật quyền). Những thứ vô hình là đối tượng của quyền sở hữu với những đặc trưng nêu trên được gọi là tài sản dạng quyền tài sản, ở Việt Nam, quyền này quy định tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015. Đối với các vật quyền trên tài sản, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã lựa chọn ba loại vật quyền để điều chỉnh riêng biệt tại Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015, gọi là các “quyền khác đối với tài sản”, được tách ra từ quyền sở hữu, ghi nhận song song, bên cạnh quyền sở hữu. Như vậy, có thể thấy, quyền đối với tài sản theo luật thực định Việt Nam bao gồm quyền sở hữu đối với những thứ vô hình (được hiểu là một loại tài sản), các quyền khác đối với tài sản theo Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 và những vật quyền khác. Các vật quyền này có thể chuyển hóa thành tài sản khi được pháp luật thừa nhận.

Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Qua nghiên cứu chế định QTS, có thể liệt kê một số QTS là một dạng tài sản như sau: Quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất, quyền đòi nợ, QTS phát sinh từ hợp đồng, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm[17]. Ngoài ra, khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không buộc QTS phải là quyền có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự thì các quyền như quyền được cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, danh dự và các QTS khác là những quyền trị giá được thành tiền, dù không thể chuyển giao trong giao lưu dân sự cũng được xem là QTS.

“Các quyền tài sản khác” tại Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể liệt kê một số quyền như sau: Quyền đòi nợ[18], quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên[19], QTS phát sinh từ hợp đồng; quyền được nhận số tiền bảo hiểm, QTS đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp[20], quyền sử dụng khu vực biển được giao để nuôi trồng thủy sản[21], quyền được cấp dưỡng, quyền được bồi thường thiệt hại và các QTS khác được pháp luật quy định.

Trong Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, thì bên cạnh liệt kê một số quyền chung còn liệt kê QTS trong một số trường hợp cụ thể, trong đó, các QTS phát sinh từ hợp đồng như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu thanh toán…; một số QTS phát sinh từ một số hợp đồng cụ thể liên quan đến tàu bay, tàu biển và QTS liên quan đến hợp đồng về nhà ở (điểm b, điểm c khoản 7 Điều 6). Thông tư này đã giúp xác định cụ thể hơn các tài sản là QTS theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, Thông tư đã có một số quy định trùng lặp về quyền đòi nợ. Quyền đòi nợ có thể phát sinh từ hợp đồng vay, các loại hợp đồng khác hoặc phát sinh từ các căn cứ khác. Thông tư trên đã quy định quyền đòi nợ chung chung tại điểm a khoản 7 Điều 6 và liệt kê quyền đòi nợ là một dạng QTS phát sinh từ một số hợp đồng cụ thể tại điểm b, điểm c khoản 7 Điều 6 (không nhắc đến quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay). Có thể thấy, chưa có sự nhất quán và rõ ràng trong quy định này, vừa thừa lại vừa thiếu. QTS phát sinh từ hợp đồng không được ghi nhận theo hướng khái quát nhưng liệt kê thì không đầy đủ (ví dụ, không nhắc đến quyền được bồi thường thiệt hại không phát sinh từ hợp đồng). Thiết nghĩ, quy định QTS trong Thông tư này cần sắp xếp logic và đầy đủ hơn.

Có thể thấy, mặc dù QTS được xác định là “quyền trị giá được bằng tiền”, nhưng thực chất có những thứ trị giá được bằng tiền nhưng pháp luật Việt Nam chưa cho phép hoặc chưa có hành lang pháp lý điều chỉnh giao dịch liên quan đối tượng đấy. Đặc biệt, trong kỷ nguyên công nghệ số, những thứ “có thể trị giá được bằng tiền” ngày càng đa dạng và phong phú.

Huỳnh Anh
Đại học An Giang trực thuộc Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh


[1] Trích theo Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, tr. 228.

[2] Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 40.

[3] Bryan A. Garner (1999), Black's Law Dictionary 7th edition, PUB. West Group, tr. 1232.

[4] Các nước theo truyền thống Civil Law quan niệm quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền hưởng hoa lợi và quyền định đoạt, còn quyền chiếm hữu là một quan hệ thực tế. Xem thêm Điều 206 Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Luật về quyền của Trung Quốc.

[5] Theo pháp luật dân sự Việt Nam, một mặt, xem quyền chiếm hữu là một quyền năng trong quyền sở hữu, mặt khác lại thiết kế chiếm hữu thành một nội dung riêng theo kiểu một hành vi thực tế.

[6] Nguyễn Văn Cừ, Trần Ngọc Huệ (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 303.

[7] SMH Law School Summarries I, Third Edition, SMH Inc, 1987, Real Property, Page 1.

[8] Xem Điều 261 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[9] Theo Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi “theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật”, nhưng chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi “trong phạm vi quyền được quy định” tại Bộ luật này, luật khác có liên quan.

[10] Điều 578 Bộ luật Dân sự năm Pháp 2005 (bản dịch): “Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức là quyền hưởng dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác…” và Điều 595: “Người hưởng hoa lợi, lợi tức có thể tự mình hưởng dụng tài sản, thậm chí có thể bán, chuyển giao không có đền bù quyền hưởng hoa lợi, lợi tức của mình”.

[11] Theo tác giả Nguyễn Ngọc Điện: “Tách ra từ quyền sở hữu để trở thành một quyền độc lập, các vật quyền chính không phải là quyền sở hữu đều có tính tạm thời: Đến lúc nào đó các quyền này phải biến mất hoặc gia nhập trở lại vào quyền sở hữu”, xem Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình luật dân sự, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 175.

[12] Riêng quyền đối với bất động sản liền kề chỉ có ý nghĩa đối với chủ sở hữu các bất động sản liền kề đó, không có ý nghĩa đối với chủ thể khác nên quyền này không thể được chuyển giao độc lập cho một chủ thể khác mà không gắn với quyền sở hữu bất động sản liền kề.

[13] Xem Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[14] Theo pháp luật Pháp, quyền này gọi là quyền hưởng hoa lợi, lợi tức, tại Điều 578 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp (bản dịch): “Quyền hưởng hoa lợi, lợi tức là quyền hưởng dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác như chính chủ sở hữu, nhưng có trách nhiệm giữ nguyên tài sản đó”.

[15] Xem Điều 578, Điều 595 Bộ luật Dân sự năm 2005 của Pháp.

[16] Xem các Điều 261, Điều 247, Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[17] Xem Điều 322 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[18] Quyền đòi nợ với ý nghĩa là một tài sản thuộc loại quyền tài sản có thể hiểu đó là một khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời gian nhất định.

[19] Cũng có sự trùng lặp như quy định đối với quyền đòi nợ.

[20] Bộ luật Dân sự năm 2015 không liệt kê các quyền tài sản, tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã từng liệt kê một số quyền tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo đảm tại Điều 322. Các quyền này hiện nay cũng thỏa mãn theo định nghĩa quyền tài sản của Bộ luật Dân sự năm 2015.

[21] Điểm a khoản 1 Điều 46 Luật Thủy sản năm 2017.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: