Thứ sáu 13/06/2025 07:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề về việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án

Biện pháp bảo đảm được hiểu là những chế tài theo quy định của pháp luật do chấp hành viên tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

Đây là một điểm mới được Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định. Trước đây các Pháp lệnh về thi hành án dân sự (Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, 1993,...) không quy định các biện pháp bảo đảm thi hành án. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 giành hẳn Mục 1 Chương IV để quy định về các biện pháp bảo đảm cho thấy tính cấp thiết và quan trọng của các biện pháp này trong công tác thi hành án dân sự. Và thực tế cũng cho thấy, các biện pháp bảo đảm thi hành án đã mang lại những khởi sắc nhất định trong công tác thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, biện pháp này vẫn còn những hạn chế, khó khăn nhất định. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số vấn đề đang là tâm điểm khó khăn của chấp hành viên qua thực tiễn tổ chức áp dụng biện pháp này.

Thứ nhất, xét một cách tổng thể thì biện pháp bảo đảm thi hành án không khác nhiều so với biện pháp kê biên ngay (theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004). Điều khác biệt cơ bản là có sự phân định rạch ròi về bản chất của các biện pháp này (biện pháp bảo đảm mới ở giai đoạn ngăn chặn, khác với biện pháp kê biên ngay ở giai đoạn cưỡng chế). Tuy nhiên, biện pháp bảo đảm lại quy định các dấu hiệu “...tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án...”(1) như biện pháp kê biên ngay của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Những dấu hiệu này trước đây đã từng cản trở chấp hành viên áp dụng biện pháp kê biên ngay vì rất khó xác định dấu hiệu, nhưng lại dễ dàng cho đương sự khiếu nại, và để an toàn, chấp hành viên rất ít khi áp dụng biện pháp kê biên ngay. Cho đến nay, chưa có thống kê trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008 và từ khi Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực đến nay có bao nhiêu vụ việc được áp dụng biện pháp kê biên ngay và áp dụng biện pháp bảo đảm. Nhưng theo chúng tôi tìm hiểu, qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An, Đồng Nai, Bình Phước,... rất ít chấp hành viên áp dụng các biện pháp này. Lý do được đưa ra là biện pháp bảo đảm thi hành án còn rườm rà hơn cả biện pháp kê biên ngay vì phải thực thi quá nhiều thủ tục như trong trường hợp thu giữ tài sản trong thời hạn 15 ngày phải xác minh, thông báo, áp dụng biện pháp cưỡng chế, hoặc trả lại tài sản trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án,..

Thứ hai, việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án...”(2).

Biện pháp này xét trên khía cạnh lý thuyết thì rất ưu điểm, vì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án phải tự nguyện thi hành và để phòng ngừa người phải thi hành án tẩu tán, biện pháp này cho phép chấp hành viên được quyền phong tỏa tài khoản của người phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án sau này. Tuy nhiên, biện pháp này cũng rất ít khi được chấp hành viên áp dụng, bởi lẽ, có các khó khăn sau đây:

Một là, các kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng thường từ chối cung cấp số tài khoản, số dư tài khoản cho cơ quan thi hành án dân sự với những lý do rất tế nhị và rất khó để quy trách nhiệm. Và càng khó khăn hơn cho người được thi hành án xác định và cung cấp cho cơ quan thi hành án dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự làm căn cứ tổ chức thi hành (ra quyết định phong tỏa tài khoản).

Hai là, trong trường hợp chấp hành viên xác định được số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án hoặc người được thi hành án cung cấp được cho cơ quan thi hành án dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của người phải thi hành án thì trong khoảng thời gian tự nguyện thi hành án chấp hành viên vẫn có thể vận dụng các quy định khác của pháp luật để thực thi. Trong trường hợp này, chấp hành viên có thể vận dụng quy định tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự năm 2008(3), theo đó chấp hành viên lập biên bản với đại diện kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng về việc thi hành án và yêu cầu kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng đó tạm giữ đủ số tiền phải thi hành án để đảm bảo việc thi hành án mà không nhất thiết phải ra quyết định phong tỏa – tốn thời gian, công sức và không kịp thời. Bởi vì, ra được quyết định phong tỏa, “tìm” được người đại diện hợp pháp của kho bạc, ngân hàng, tổ chức tín dụng để tống đạt quyết định là cả một vấn đề nan giải.

Ba là, khó khăn về thời gian xử lý quyết định phong tỏa tài khoản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 67 thì: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định phong toả tài khoản, chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế …”(4). Vấn đề đặt ra là trong thời gian này đương sự - người phải thi hành án chưa hết quyền thỏa thuận thi hành án “Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận….”(5). Hơn thế nữa, đương chưa mất quyền/hết thời gian tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 8 và Điều 45 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Như vậy, việc chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế là vi phạm nghiêm trọng đến quyền của người phải thi hành án. Bởi vì, quy định tại khoản 2 Điều 45 là cho phép chấp hành viên được áp dụng các biện pháp bảo đảm chứ không phải là biện pháp cưỡng chế. Thủ tục cưỡng chế vẫn phải tuân theo trình tự luật định.

Các nhà làm luật đã đưa ra những quy phạm pháp luật thiếu rõ ràng, và để an toàn nếu có áp dụng biện pháp này, chấp hành viên đều phải vượt rào – vi phạm thời hạn 05 ngày để đảm bảo đúng trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án.

Theo chúng tôi, với trường hợp trên, biện pháp cưỡng chế - khấu trừ ngay vào tài khoản của người phải thi hành án (như quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004) lại mang tính hiệu quả và tiết kiệm nhất – nếu không có sự phân định quá rạch ròi về biện pháp bảo đảm và biện pháp cưỡng chế như Luật Thi hành án dân sự đã quy định.

Thứ ba, đối với biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự theo quy định tại Điều 68 Luật Thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng…”(6).

Những quy định nêu trên tưởng chừng như rất thuận lợi cho chấp hành viên thực thi, nhưng những ai đã thực hiện mới nhận thấy hết những vất vả, khó khăn.

Khó khăn đầu tiên là khi thực hiện biện pháp này phải cần có sự hỗ trợ lực lượng như: Công an, viện kiểm sát, chính quyền địa phương,... nhưng công an và viện kiểm sát đều từ chối với lý do là không có hướng dẫn hỗ trợ, kiểm sát hoạt động này. Thực vậy, đến nay chỉ có văn bản hướng dẫn về hỗ trợ cưỡng chế (Quyết định số 1501/2008/QĐ-BCA (C11), ngày 10/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy trình hỗ trợ cưỡng chế thi hành án dân sự của lực lượng bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân) chứ chưa có văn bản nào hướng dẫn hỗ trợ lực lượng cho biện pháp bảo đảm.

Khó khăn thứ hai là chấp hành viên phải xác định được dấu hiệu: Tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án để có căn cứ tạm giữ. Chúng tôi xin nêu một vụ việc là người phải thi hành án đến trụ sở cơ quan thi hành án bằng xe gắn máy, trong khi nghĩa vụ thi hành án tương xứng với chiếc xe trên, chấp hành viên tạm giữ chiếc xe để đảm bảo thi hành án. Đương sự cho rằng không có ý tẩu tán, hủy hoại hay trốn tránh việc thi hành án và chống đối quyết liệt. Trong trường hợp trên chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý như thế nào? đang được luật bỏ ngỏ. Và vấn đề sẽ thực sự phức tạp nếu không được sự kiểm sát của viện kiểm sát, không được sự hỗ trợ của lực lượng công an thì uy tín và tính nghiêm minh của pháp luật sẽ bị xâm phạm. Theo chúng tôi, để đảm bảo việc áp dụng khả thi điều luật này, nên chăng cũng cần phải có quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ của viện kiểm sát và công an.

Khó khăn thứ ba là theo quy định thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ, chấp hành viên ra một trong các quyết định hoặc là áp dụng biện pháp cưỡng chế nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải thi hành án; hoặc trả lại tài sản tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án.

Tuy nhiên, tại Điều 89 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng có quy định: “Trước khi kê biên... tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật, chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký”(7). Và theo quy định này, thì thời hạn xác minh, cung cấp thông tin không phải hoàn toàn dựa vào chấp hành viên mà phần lớn phụ thuộc vào các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin. Thực tiễn cho thấy, việc trả lời xác minh, cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án dân sự của các cơ quan có liên quan không phải bao giờ cũng nhanh chóng mà đa phần là chậm trễ, và nhanh nhất cũng 20 đến 30 ngày, còn chậm thì chưa biết đến bao giờ.

Theo chúng tôi để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của chế định bảo đảm thi hành án, rất cần một sự tổng kết thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm trên phạm vi cả nước để có những hướng dẫn, bổ sung phù hợp với thực tiễn và tháo gỡ những khó khăn cho người áp dụng.

ThS. Đinh Duy Bằng

Tài liệu tham khảo:

(1). Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(2). Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(3). Điều 11 Luật Thi hành án dân sự quy định: “1. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy định của Luật này.

Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”.

(4). Khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(5). Khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(6). Điều 68 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

(7). Khoản 1 Điều 89 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm