Thứ bảy 21/06/2025 15:22
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vụ án liên quan đến người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhưng không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam

Điều 9 và Điều 126 Luật Nhà ở chỉ cho phép một số đối tượng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam, còn lại không được sở hữu nhà.

Điều 72 Nghị định 71/2010 ngày 23/6/2010 hướng dẫn Luật Nhà ở cũng chỉ có hướng dẫn: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam chỉ được nhận giá trị nhà ở khi được nhận tặng cho, thừa kế nhà ở, nhưng họ phải trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác bán nhà ở khi có các giấy tờ về nhà ở như hợp đồng tặng cho, giấy tờ thừa kế nhà được lập theo quy định tại Điều 93 Luật Nhà ở…

Điều 129 Luật Nhà ở cũng có quy định cụ thể hạn chế quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép sở hữu nhà ở tại Việt Nam là chỉ được bán, tặng cho, để lại thừa kế cho người được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; nếu tặng cho, để lại thừa kế cho đối tượng khác thì các đối tượng này chỉ được hưởng giá trị tài sản. Tuy nhiên, chưa thấy có quy định nào về việc giao cho cơ quan nào thực hiện việc này và thủ tục như thế nào, cũng như có quy định gì về xử lý các trường hợp người Việt Nam đã định cư ở nước ngoài không về Việt Nam nữa nhưng vẫn có nhà ở tại Việt Nam. Ngoài ra, quy định nêu trên còn chưa thể hiện rõ: Nếu có hợp đồng tặng cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì có được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật hay vẫn xác định không vi phạm và phải công nhận hợp đồng, nhưng phải yêu cầu người mua phải thực hiện việc bán nhà ngay sau khi hợp đồng được công chứng?

Như vậy, Nhà nước đã thể hiện quan điểm rõ ràng về việc sở hữu nhà của đối tượng không được sở hữu nhà tại Việt Nam, nhưng lại không có những quy định dự liệu hết các hệ lụy có thể phát sinh, nên trên thực tế, có nhiều tranh chấp tại Tòa án có nhiều quan điểm khác nhau. Mặt khác, tình trạng người Việt Nam đã định cư ở nước ngoài nhưng vẫn còn nhà ở (được tạo lập trước khi xuất cảnh) tại Việt Nam khi có tranh chấp như đòi nhà cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà… rất khó giải quyết. Sau đây là một vài vụ án điển hình có nhiều cách giải quyết khác nhau của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:

Vụ thứ nhất: Năm 1997 bà Hải xuất cảnh đi Mỹ, căn nhà của bà ở thành phố H bà để cho chị Bình là cháu ruột trông nom. Tuy nhiên, chị Bình lại tự ý cho thuê căn nhà nên bà Hải có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Bình phải trả lại bà căn nhà. Chị Bình cho rằng, bà đã đồng ý cho chị được cho thuê nhà nên không đồng ý trả, nhưng chị không xuất trình được chứng cứ chứng minh.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng, bà Hải thuộc đối tượng không được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nên không chấp nhận yêu cầu đòi nhà của bà Hải.

Tòa án cấp phúc thẩm xác định: Quyền sở hữu nhà ở của bà Hải được xác lập một cách hợp pháp trước khi bà xuất cảnh, đến nay, bà chưa có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc bà phải bán nhà để hưởng giá trị. Mặt khác, giao dịch ủy quyền quản lý nhà giữa bà Hải và chị Bình được xác lập vào năm 1997 là hợp pháp, nên chị Bình vi phạm nghĩa vụ và có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hải, buộc chị Bình phải trả nhà. Do hiện nay bà Hải không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nữa, nên quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà của bà Hải và buộc bà phải thực hiện việc bán nhà ở theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm của cấp phúc thẩm, nhưng cũng có ý kiến khác không nhất trí với việc kiến nghị thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà của bà Hải,… vì cho rằng hiện tại Nhà nước chưa có quy định gì về việc nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp có trước khi xuất cảnh của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, do đó không có quyền quyết định thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhà, mà chỉ có quyền kiến nghị cơ quan quản lý nhà ở có thẩm quyền giải quyết về quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở mà thôi.

Vụ thứ hai: Ông Hùng là người Việt Nam có căn nhà tại thành phố H. Ngày 20/01/2002 ông ký hợp đồng bán căn nhà trên cho ông Khánh là người định cư ở nước ngoài về nước mua nhà để sau này về nước ở, nhưng lúc đó, ông Khánh không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nên hợp đồng không có công chứng, chứng thực và không làm thủ tục được, nhưng ông Hùng đã nhận tiền, giao nhà cho ông Khánh và ông Khánh cho em trai là anh Bình ở (anh Bình là người Việt Nam). Năm 2009, ông Khánh lập di chúc để lại căn nhà trên cho anh Bình và năm 2010 ông chết. Ngày 10/2/2010, anh Bình có đơn yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng mua bán nhà và căn cứ di chúc xác định anh là người thừa kế hợp pháp di sản của ông Khánh. Lúc này giá nhà đã lên cao gấp 3 lần nên ông Hùng có yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm (lúc thực hiện giao dịch ông Khánh không thuộc đối tượng được mua nhà), ông sẽ trả lại anh Bình số tiền đã nhận và anh Bình trả lại nhà cho ông.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm (Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 1995), vi phạm quy định về hình thức (Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 1995) nên không có giá trị, vì vậy, di chúc cũng vô hiệu. Do đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bình, chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hùng, xử hủy hợp đồng và buộc anh Bình trả lại ông Hùng căn nhà, ông Hùng trả lại tiền nhà cho người thừa kế theo pháp luật của ông Hùng là bà Châu (người Việt Nam định cư ở Mỹ, tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bà Châu cho rằng, căn nhà là tài sản riêng của ông Hùng nên bà không có ý kiến gì tranh chấp với anh Bình) về số tiền mua nhà đã nhận của ông Hùng.

Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, cũng xác định hợp đồng vô hiệu và di chúc không có giá trị như nhận định của cấp sơ thẩm, nhưng xác định lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là của cả hai bên và lỗi ngang nhau, nên chỉ buộc ông Hùng trả cho bà Châu số tiền đã nhận của ông Hùng và 1/2 số tiền chệnh lệch giá nhà do lên cao (được coi là thiệt hại do hợp đồng vô hiệu theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Có quan điểm không đồng tình với các xử máy móc của Tòa án 2 cấp, cho rằng tuy thời điểm xác lập hợp đồng pháp luật có vi phạm, nhưng sau đó ông Hùng đã có di chúc tặng cho anh Bình và anh Bình là người Việt Nam nên không coi là vi phạm điều cấm nữa, mà cần công nhận hợp đồng để bảo đảm các nguyên tắc của luật dân sự.

Thực tiễn vốn phong phú và đa dạng hơn, nên các quy định pháp luật cần phải có quy định dự trù hết các trường hợp phát sinh khi triển khai quy định mới vào đời sống. Nếu quy định thiếu, hoặc không phù hợp, hoặc mâu thuẫn với các quy định khác, thì chắc chắn không chỉ Tòa án mà các cơ quan áp dụng pháp luật khác sẽ có cách xử lý khác nhau. Điều đó sẽ có tác động xấu đến yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp thực tiễn, đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay

Phan Thị Vân Hương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm