Thứ ba 10/06/2025 11:56
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập[1]

Trong xu hướng cơ sở giáo dục công lập tự chủ hoàn toàn về tài chính, việc quản lý, sử dụng đất đai một cách có hiệu quả là phù hợp với điều kiện hiện nay. Bài viết đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập.

1. Đặt vấn đề

Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Đất đai năm 2024 được cơ sở giáo dục công lập - với tư cách là “người sử dụng đất”[2] quan tâm chính là sự ghi nhận “đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập có nhu cầu sử dụng một phần hoặc toàn bộ diện tích được giao để sản xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ thì được lựa chọn chuyển sang hình thức Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm đối với phần diện tích đó” (khoản 3 Điều 30); “đơn vị sự nghiệp công lập lựa chọn hình thức thuê đất theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật này” (điểm c khoản 3 Điều 120); đồng thời, theo Điều 9 đất đai gồm nhiều loại khác nhau, trong đó có loại đất “giáo dục và đào tạo” thuộc nhóm đất phi nông nghiệp (điểm d khoản 3) và theo khoản 2 Điều 13 thì đất đai có thể được chuyển mục đích sử dụng khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Chính vì những quy định mới này, nên việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế đất cũng như thực hiện quyền sử dụng vốn đất đai tại các cơ sở giáo dục công lập, nhất là trong điều kiện tự chủ hóa các cơ sở giáo dục công lập là thực sự cần thiết.

Hiện nay, ở Việt Nam, cơ chế tự chủ hoàn toàn về tài chính đối với các cơ sở giáo dục công lập đang là một xu thế. Trong hoàn cảnh đó, các cơ sở giáo dục công lập rất cần có một sự “trợ lực” và phải tận dụng tối đa mọi nguồn lực, tiềm năng mà Nhà nước trao cho trong đó có đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị trong khuôn khổ của pháp luật nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa, nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, đào tạo phát triển. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tiếp cận dưới giác độ phát huy tối đa nguồn lực vô cùng quan trọng là vốn đất đai (đất đai là vốn) góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế đất, cũng như thực hiện quyền sử dụng đất đai tại các cơ sở giáo dục công lập trong xu thế tự chủ hoàn toàn về tài chính góp phần đem lại lợi ích cho chính các cơ sở giáo dục công lập và người học.

2. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập

2.1. Quy định của pháp luật đất đai

Các cơ sở giáo dục công lập (là một loại hình đơn vị sự nghiệp công lập) được xác định là “người sử dụng đất” theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 với tư cách chủ thể là một loại tổ chức trong nước sử dụng đất. Loại đất mà các cơ sở giáo dục công lập đang quản lý, sử dụng trong nhóm đất phi nông nghiệp theo khoản 1 và điểm d khoản 3 Điều 9 Luật Đất đai 2024 và có thể được “chuyển mục đích sử dụng” sang loại đất khác như: Đất nông nghiệp; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp… khi “được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Đất đai năm 2024. Như vậy, các cơ sở giáo dục công lập có quyền sử dụng đất “giáo dục và đào tạo” như những quy định trước đây và còn có thể sử dụng đồng thời nhiều loại đất với nhiều mục đích khác nhau nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng.

Theo Luật Đất đai năm 2024, các cơ sở giáo dục công lập được xác định tư cách là “người sử dụng đất” nên được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ chung của người sử dụng đất quy định tại Điều 26, Điều 27 và Điều 31; ngoài ra còn có các quyền và nghĩa vụ riêng được quy định tại các điều 32, 33, 34. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn là đại diện chủ sở hữu về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai. Hình thức sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập là thông qua việc Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất (Điều 32) hoặc Nhà nước cho thuê đất có thu tiền sử dụng đất (Điều 33, Điều 34) mà không bàn về việc các cơ sở giáo dục công lập có tự chủ tài chính hay không. Đây là quy định mới của Luật Đất đai năm 2024, giúp các chủ thể sử dụng đất bình đẳng như nhau. Trước đây, Luật Đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với các cơ sở giáo dục công lập chưa tự chủ hoàn toàn về tài chính nhằm để xây dựng công trình sự nghiệp. Mặc dù, có thể nói, đây là “ưu ái” đối với các cơ sở giáo dục công lập nhưng trên thực tế lại có hạn chế nhất định trong việc thực hiện quyền sử dụng đất nên cũng chưa thực sự phát huy được “sức mạnh” của nguồn lực đất đai hay nói cách khác là còn hạn chế khả năng của kinh tế đất. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục công lập dù có sử dụng đất dưới hình thức thuê trả tiền hàng năm hoặc thuê đất mà tiền trả thuê đất có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước thì cũng không được thực hiện đầy đủ quyền sử dụng đất đó. Luật Đất đai năm 2024 đã mở ra một khả năng mới về kinh tế đất như khoản 3 Điều 30 quy định là được phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất nếu cơ sở giáo dục công lập mong muốn và phải thực hiện thủ tục hành chính tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đồng thời, Luật Đất đai năm 2024 không còn sự phân biệt “nhóm” quyền và nghĩa vụ cụ thể cho từng loại đơn vị mà chỉ quy định quyền và nghĩa vụ chung, quyền và nghĩa vụ cụ thể cho từng loại chủ thể không loại trừ các cơ sở giáo dục công lập, điều này cho thấy được tính minh bạch, công bằng với tất cả các chủ thể sử dụng đất.

2.2. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế đất đối với đất đã giao quyền sử dụng cho các cơ sở giáo dục công lập

Đất đai được xem như một loại “vốn đặc biệt” của các cơ sở giáo dục công lập. Vốn, giống như năng lượng, cũng là “một giá trị đang nằm ngủ”. Đưa vốn vào cuộc sống đòi hỏi phải đi xa hơn việc nhìn các tài sản như chúng đang tồn tại, mà phải suy nghĩ một cách năng động về tiềm năng của chúng[3]. Vốn đất đai của các cơ sở giáo dục công lập đang quản lý, sử dụng được điều chỉnh bởi Luật Đất đai và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 và năm 2022 (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công). Theo đó, khoản 3 Điều 5 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định: Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước thực hiện: Đầu tư vốn, khoa học và công nghệ để phát triển tài sản công và hiện đại hóa công tác quản lý tài sản công theo quy định của pháp luật; nhận chuyển giao quyền đầu tư, khai thác hoặc thuê quyền khai thác tài sản công theo quy định của pháp luật; cung cấp dịch vụ về tài sản công theo quy định của pháp luật. Tuy vậy, trong trường hợp quyền sử dụng đất được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết mà tiền thuê đất đã được trả một lần cho cả thời gian thuê không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thì các cơ sở giáo dục công lập có thể thực hiện các biện pháp nhằm huy động nguồn lực là vốn đất đai. Việc sử dụng vốn đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải bảo đảm tất cả các yêu cầu: Được cơ quan, người có thẩm quyền cho phép; không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục công lập được Nhà nước giao; không làm mất quyền sở hữu về tài sản công; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao; sử dụng tài sản đúng mục đích được giao, được đầu tư xây dựng, mua sắm; phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị; phát huy công suất và hiệu quả sử dụng tài sản; tính đủ khấu hao tài sản cố định, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác với Nhà nước theo quy định của pháp luật; Nhà nước không cấp kinh phí bảo dưỡng đối với tài sản công chỉ được sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; thực hiện theo cơ chế thị trường và tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan[4].

Mặt khác, Luật Đất đai năm 2024 cũng quy định: “Đối với đất đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho thuê đất thì được phép chủ động khai thác, sử dụng kết hợp đa mục đích theo phương án được cơ quan chủ quản phê duyệt phù hợp với quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; trường hợp có đầu tư xây dựng công trình trên đất phải phù hợp với pháp luật về xây dựng. Việc khai thác, sử dụng đất kết hợp đa mục đích phải được hạch toán theo quy định của pháp luật” và “đối với đất do đơn vị sự nghiệp công lập đang sử dụng mà có nhu cầu cho thuê, liên doanh, liên kết với tổ chức kinh tế thì phải có đề án sử dụng tài sản công vào mục đích cho thuê, liên doanh, liên kết được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (điểm a, điểm b khoản 2 Điều 34).

Như vậy, việc lập đề án để sử dụng đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết là phải do cơ quan chủ quản phê duyệt; các cơ sở giáo dục công lập chỉ tổ chức thực hiện theo đề án đã được phê duyệt, có nghĩa vụ cập nhật thông tin việc sử dụng đất đai vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết và thực hiện đầy đủ tất cả các yêu cầu tại Điều 55 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Số tiền thu được từ hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết phải được hạch toán riêng và kế toán đầy đủ theo quy định của pháp luật về kế toán và được quản lý, sử dụng để chi trả các chi phí liên quan, trả nợ vốn vay (nếu có), vốn đã huy động được (nếu có), thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; phần còn lại được quản lý, sử dụng theo quy định và cần được luật hóa.

2.3. Thực hiện quyền sử dụng đất của các cơ sở giáo dục công lập

Hiện nay, các cơ sở giáo dục công lập đang sử dụng một nguồn vốn là đất đai rất lớn, cả về diện tích, vị trí và giá trị. Tuy nhiên, các cơ sở giáo công lập vẫn chưa phát huy được hết giá trị kinh tế đất, sử dụng đất chưa hiệu quả, thậm chí còn lãng phí do bỏ hoang, chưa khai thác tối đa công năng của đất... Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do các quy định chưa cụ thể của pháp luật đất đai, pháp luật về đầu tư công, quản lý tài sản công, pháp luật về ngân sách nhà nước... cơ sở pháp lý của việc tự chủ nguồn lực về đất đai tại các cơ sở giáo dục công lập hiện nay vẫn còn chưa cụ thể và nằm rải rác trong các văn bản như: Luật Đất đai, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Ngân sách nhà nước, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành… Cùng với đó, tâm lý thận trọng, đã quen “bầu sữa ngân sách” nên các cơ sở giáo dục công lập còn chưa thực sự tích cực, chủ động với vấn đề tự chủ hoàn toàn về tài chính, lựa chọn hướng tiếp cận tự chủ từng bước và rất ít quan tâm đến kinh tế đất với tư cách đất đai là một nguồn vốn.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính

Từ thực trạng tự chủ hoàn toàn về tài chính; quản lý nhà nước, sử dụng vốn đất đai của các cơ sở giáo dục công lập, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đất và thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập cụ thể như sau:

Một là, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần sớm xây dựng thông tư hướng dẫn cụ thể việc quản lý nhà nước về kinh tế đất, cũng như thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 2024. Từ đó, vốn đất đai được nhìn nhận với quan niệm “kinh tế đất”, để sớm tổ chức thực hiện quyền sử dụng đất tại các cơ sở giáo dục công lập hiệu quả hơn, giúp hình thành các mô hình liên kết, khai thác, liên doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.

Hai là, các cơ sở giáo dục công lập cần quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng, sáng tạo trong quản lý tài sản công, đặc biệt là chủ động thực hiện quyền sử dụng đất đai. Rà soát sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý tài chính, tài sản công, đất đai, xác định đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng đơn vị. Củng cố bộ phận tham mưu, tư vấn có chất lượng cho hội đồng trường, hiệu trưởng, người đứng đầu các cơ sở giáo dục công lập trong điều kiện tự chủ hoàn toàn về tài chính để ban hành những quyết định theo đúng quy định của pháp luật về tài chính, tài sản công, đất đai giúp phát huy tối đa giá trị của đất đai với tư cách đất đai là một nguồn vốn.

Ba là, cần tránh việc hành chính hóa các nhiệm vụ được giao, phải có sự tách bạch giữa nhiệm vụ được giao (nếu có) với hoạt động giáo dục và đào tạo mang tính dịch vụ của các cơ sở giáo dục công lập. Ở góc độ hoạt động dịch vụ, cần xem như hoạt động kinh doanh và có tính cạnh tranh nhằm đem lại lợi ích chính đáng cho người học và xã hội. Các đề án sử dụng tài sản công, trong đó có đất đai, rất cần được các cơ quan chủ quản, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan tâm hướng dẫn; xác định rõ hơn về giá trị của quyền sử dụng đất với khái niệm “kinh tế đất”./.

ThS. Nguyễn Duy Quốc

Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Luật miền Nam

[1]. Bài viết này chỉ đề cập đến các cơ sở giáo dục là trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và cơ sở giáo dục đại học công lập.

Khái niệm “kinh tế đất” được hiểu là những vấn đề kinh tế trong các quyết định sử dụng đất nhằm khai thác một cách hợp lý, có hiệu quả nguồn lực đất đai để gia tăng nguồn lợi mang lại từ đất; lượng hóa lợi ích các giá trị kinh tế mang lại từ đất và sử dụng các công cụ kinh tế điều tiết lợi ích một cách phù hợp để một mặt giải quyết hài hòa lợi ích giữa các chủ thể có liên quan trong mối quan hệ về đất đai đồng thời khuyến khích các hoạt động sử dụng đất một cách tiết kiệm, hiệu quả, biến nguồn lực đất đai thành nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội; sử dụng các công cụ thị trường để giải quyết các quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích trong các thay đổi quan hệ sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất và quản lý các giao dịch, cung - cầu và giá cả trong thị trường đất đai (xem Sách chuyên khảo: Quản lý kinh tế đất theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, GS.TS. Hoàng Văn Cường (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 11 - 12).

[2]. Xem điểm a khoản 1 Điều 4 Luật Đất đai năm 2024.

[3]. Hernando de Soto, Bí ẩn của vốn (2023), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật (xuất bản lần thứ 5), tr. 64.

[4]. Điều 55 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 407), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm