Thứ sáu 06/06/2025 15:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nhận diện bản chất pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Tóm tắt: Bài viết phân tích, đánh giá và bình luận những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa trên phương diện nhận diện bản chất lý của loại doanh nghiệp này.

Tóm tắt: Bài viết phân tích, đánh giá và bình luận những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa trên phương diện nhận diện bản chất lý của loại doanh nghiệp này.

Abstract: The article analyzes, evaluates and comments on the basics of small and medium-sized enterprises (SMEs) in terms of identifying the legal nature of this type of enterprises.

1. Vài nét về doanh nghiệp nhỏ và vừa

Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được xác định là động lực tăng trưởng, là “xương sống” của các nền kinh tế. Các quốc gia đã phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… hay các quốc gia đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á như Malaysia, Thái Lan… đều quan tâm đến việc thành lập và hoạt động của loại doanh nghiệp này.

Tại Việt Nam, theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME), có đến 96% doanh nghiệp đăng ký ở Việt Nam là DNNVV. Khối này tạo ra đến 40% tổng sản phẩm quốc nội, tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm, chủ yếu mang lại lợi ích đặc biệt cho nguồn lao động chưa qua đào tạo. Trong những năm tới, khối DNNVV vẫn sẽ đóng vai trò chủ chốt đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như: Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)…

DNNVV là loại doanh nghiệp có số lao động, quy mô ở một giới hạn nào đó. Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng, khái niệm DNNVV được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận trong những năm qua. Thông thường, các tiêu chí đó là về số nhân công, vốn đăng ký, doanh thu... các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trình phát triển khác nhau. Việc xác định khái niệm DNNVV có ý nghĩa trong việc tìm ra các đối tượng thuộc diện DNNVV được áp dụng các chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước.

Ở Việt Nam, định nghĩa về DNNVV có sự thay đổi theo thời gian. Theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ về việc định hướng chiến lược và chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV ở Việt Nam, thì DNNVV là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người, số vốn kinh doanh dưới 05 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh chung về các DNNVV ở Việt Nam và chủ yếu đó là quy ước hành chính phục vụ cho việc hoạch định chính sách hỗ trợ các DNNVV.

Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV đã chính thức đưa ra định nghĩa DNNVV, theo đó, DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp, thì DNNVV là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: Siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên).

Theo Điều 4 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, thì DNNVV bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí là tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.

Như vậy, DNNVV bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa xác định theo các tiêu chí về số người lao động đóng bảo hiểm và tổng nguồn vốn hoặc tổng doanh thu. Ví dụ, khoản 1 Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định, doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 03 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 03 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 03 tỷ đồng.

2. Bản chất pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa

DNNVV là doanh nghiệp mang đầy đủ đặc điểm của một doanh nghiệp, theo đó, DNNVV là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh (khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bên cạnh đó, DNNVV còn mang những đặc điểm pháp lý riêng. Cụ thể:

Thứ nhất, doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô vốn xác định theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Quy mô vốn là cơ sở để nhận diện DNNVV. Tài sản hay vốn có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại; doanh thu có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này). Tổng nguồn vốn của DNNVV được xác định trong bảng cân đối kế toán thể hiện trên báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, tổng nguồn vốn của doanh nghiệp được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cuối quý liền kề thời điểm doanh nghiệp đăng ký hưởng nội dung hỗ trợ. Tổng doanh thu của năm là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp và được xác định trên báo cáo tài chính của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan quản lý thuế. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm hoặc trên 01 năm nhưng chưa phát sinh doanh thu thì doanh nghiệp căn cứ vào tiêu chí tổng nguồn vốn quy định tại Điều 9 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 10 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP).

Việc quy định về quy mô vốn đối với DNNVV có sự thay đổi tùy theo từng mốc thời gian. Cụ thể, so với Nghị định số 90/2001/NĐ-CP thì mức vốn của doanh nghiệp được quy định tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP đã tăng lên gấp 10 lần. Nguyên nhân của sự thay đổi này là do tác động từ kinh tế - xã hội của đất nước, sau 08 năm kể từ khi ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, các doanh nghiệp lớn mạnh không ngừng. Do vậy, nếu vẫn giữ mức quy định vốn tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP thì không phù hợp với tình hình phát triển chung của doanh nghiệp Việt Nam và sẽ khó hỗ trợ tích cực cho các DNNVV. Trong tương lai, khi nền kinh tế tiếp tục phát triển, các quy định này cũng sẽ thay đổi theo để đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình mới. Theo quy định của Nghị định số 39/2018/NĐ-CP, thì quy mô vốn được xác định theo từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có tổng doanh thu của năm không quá 03 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 03 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 03 tỷ đồng. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ. Đối với doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có tổng doanh thu của năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ.

Thứ hai, doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng lao động ít và được áp dụng cho từng loại doanh nghiệp. Tiêu chí về số lượng lao động tham gia đóng bảo hiểm là một trong những tiêu chí quan trọng để nhận diện đó có phải là DNNVV hay không. Tuy nhiên, việc xác định doanh nghiệp theo số lao động thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, ví dụ như trình độ phát triển kinh tế của một nước, trình độ phát triển càng cao thì chỉ số các tiêu chí càng tăng lên,… Số lao động là cơ sở để xác định DNNVV, ví dụ: Ở Đức, DNNVV có số lao động dưới 500 người, trong khi đó ở Bỉ, DNNVV có số lao động dưới 100 người. Đối với Liên minh Châu Âu, việc xác định DNNVV cụ thể, rõ ràng hơn, theo đó, doanh nghiệp có dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, ngược lại, doanh nghiệp có trên 250 lao động được xác định là doanh nghiệp vừa. Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, thì doanh nghiệp có dưới 100 lao động là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có dưới 500 lao động là doanh nghiệp vừa.

Ở Việt Nam, cơ sở để xác định DNNVV là dựa trên số lượng người lao động đóng bảo hiểm được áp dụng cho từng loại doanh nghiệp. Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, doanh nghiệp nhỏ có số lao động từ trên 10 người đến 200 người, doanh nghiệp vừa có số lao động từ trên 50 đến 300 người. Việc quy định số lao động đóng bảo hiểm xã hội tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP được cụ thể hơn. Theo đó, Điều 6 quy định: Doanh nghiệp siêu nhỏ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người. Số lao động tham gia đóng bảo hiểm là toàn bộ số lao động do doanh nghiệp quản lý, sử dụng, trả lương, trả công tham gia bảo hiểm xã hội. Số lao động tham gia đóng bảo hiểm được tính bằng tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của năm chia cho số tháng trong năm và được xác định bằng chứng từ bảo hiểm xã hội của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 01 năm, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân được tính bằng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của các tháng hoạt động chia cho số tháng hoạt động.

Cũng cần lưu ý rằng, tiêu chí về tổng vốn đầu tư và tiêu chí về số lao động tham gia bảo hiểm xã hội luôn gắn liền với nhau. Mối quan hệ giữa vốn và số lao động góp phần mang lại những lợi thế cho DNNVV trong vấn đề đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. Các DNNVV có mức vốn đầu tư vừa phải, sử dụng ít lao động phù hợp mức độ sẵn sàng gánh chịu rủi ro trong kinh doanh nếu cần thiết. Trong trường hợp thất bại, các tổn thất không nặng nề như các doanh nghiệp quy mô lớn, có thể làm lại từ đầu được. Theo đó, các DNNVV có động lực để đầu tư vào các lĩnh vực mới này, như khởi nghiệp, tham gia chuỗi liên kết… Tuy nhiên, cũng xuất phát từ quy mô vốn và số người lao động tham gia hiểm xã hội cũng dẫn đến một số bất lợi trong hoạt động, như hạn chế trong thế chấp, trong việc tiếp cận với nguồn tín dụng, nguồn vốn xã hội...

Thứ ba, doanh nghiệp nhỏ và vừa được tổ chức dưới các quy mô khác nhau. DNNVV được thiết kế theo các mô hình, gồm DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV do phụ nữ làm chủ sở hữu. DNNVV khởi nghiệp sáng tạo là những doanh nghiệp được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh, là doanh nghiệp mới sáng lập hoặc trong những giai đoạn đầu phát triển. DNNVV do phụ nữ làm chủ có thể do một hoặc nhiều người thành lập chiếm từ 51% vốn điều lệ trở lên. Đây là một tư duy mới trong việc xác định mô hình kinh doanh. Trong trường hợp có nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đồng thời đáp ứng điều kiện của các mức hỗ trợ khác nhau trong cùng một nội dung hỗ trợ theo quy định của pháp luật, thì doanh nghiệp có thể được lựa chọn mức hỗ trợ có lợi nhất đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nếu có nhiều DNNVV cùng đáp ứng điều kiện hỗ trợ theo quy định của pháp luật, thì ưu tiên lựa chọn DNNVV do phụ nữ làm chủ, DNNVV sử dụng nhiều lao động nữ hơn. Quy định này không tạo ra các rào cản pháp lý nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, mà chủ yếu khuyến khích các DNNVV sử dụng nhiều lao động là nữ giới.

Thứ tư, doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại doanh nghiệp được hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, lĩnh vực thương mại, dịch vụ... DNNVV hoạt động ở nhiều lĩnh vực thể hiện tính đa dạng lĩnh vực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; đồng thời cho phép lựa chọn lĩnh vực hoạt động phù hợp, mô hình DNNVV với số người lao động và mức vốn khác nhau; cho phép DNNVV linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của thị trường.

Nghiên cứu về bản chất pháp lý của DNNVV của Việt Nam cho thấy, về cơ bản là tương ứng với quy định của một số nước về lao động, vốn, doanh thu và lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay, một số quy định về loại doanh nghiệp này chưa thực sự minh bạch, cụ thể. Vì vậy, để phát huy được những lợi thế, khả năng cạnh tranh và hiệu quả của doanh nghiệp này cần thực hiện những giải pháp căn bản trên phương diện lập pháp cũng như thực tiễn thi hành, như tạo điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay tín dụng, nguồn nhân lực, vật lực, thủ tục chuyển đổi…

Các DNNVV đã và đang khẳng định tiềm năng phát triển với vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. DNNVV chính là nơi khởi nguồn đổi mới sáng tạo trong kinh doanh và cũng chính là cầu nối để đưa những kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào thực tiễn cuộc sống. Nhiều DNNVV Việt Nam đã làm chủ được công nghệ và sản xuất thành công những sản phẩm đổi mới sáng tạo có giá trị kinh tế lớn. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay cần phải tiếp tục xây dựng một nền tảng pháp lý đủ mạnh, một môi trường pháp lý minh bạch và hiệu quả để đảm bảo sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng tại Việt Nam.

ThS. Bùi Bảo Tuấn

Thanh tra Chính phủ

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm