Thứ hai 16/06/2025 20:12
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những vấn đề cần chứng minh và trình tự điều tra vụ án hình sự về đất đai

Vấn đề chứng cứ và chứng minh trong các vụ án hình sự về đất đai hiện nay đang gặp nhiều khó khăn trên thực tiễn. Nguyên nhân chủ yếu và căn bản là sự phức tạp của loại án về đất đai liên quan đến nhiều luật chuyên ngành, trong khi các văn bản hướng dẫn về lĩnh vực đất đai lại quá rộng và phức tạp, nhiều văn bản chồng chéo, thiếu thống nhất.

Các cơ quan điều tra rất giỏi về nghiệp vụ điều tra, nhưng lại không sâu về pháp luật chuyên ngành. Chủ thể tội phạm liên quan đến đất đai thường là những người có chức vụ, quyền hạn, nắm khá chắc các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai và thường tìm kẽ hở các quy định của luật để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong điều tra vụ án hình sự về đất đai là hết sức cần thiết, từ đó, nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hiện nay.

1. Những vấn đề cần chứng minh trong các vụ án hình sự về đất đai

Việc xác định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai cần căn cứ vào Điều 228, Điều 229 và Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), bao gồm:

Thứ nhất, chứng minh có hành vi phạm tội về đất đai xảy ra không? Thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội?

Khi chứng minh một người thực hiện hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm về đất đai (cụ thể là có hành vi vi phạm pháp luật trong sử dụng đất đai được quy định tại Điều 228 Bộ luật Hình sự năm 2015, cần chứng minh người đó có hành vi lấn chiếm đất đai trái pháp luật (trái với quy định tại Điều 12 Luật Đất đai năm 2013). Hành vi sai trái này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý đất đai, cần thiết phải xử lý hành vi đó theo quy định của pháp luật hình sự.

Hành vi vi phạm các quy định trong sử dụng đất đai được thể hiện ở chỗ, người phạm tội đã tự ý chuyển dịch ranh giới hoặc mốc giới thửa đất để mở rộng diện tích đất trái với quy định của pháp luật, không được pháp luật cho phép.

Hành vi chiếm đất trái với quy định của pháp luật là trường hợp trước đó, người phạm tội được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hợp pháp, tuy nhiên, đã hết thời hạn và không được gia hạn, người đó không trả lại đất mà tiếp tục sử dụng gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai (được quy định tại Điều 229 Bộ luật Hình sự năm 2015), cần chứng minh người phạm tội có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái với quy định của Luật Đất đai năm 2013.

Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định thêm một tội danh - Tội vi phạm các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230). Theo đó, cần chứng minh người phạm tội đã có hành vi vi phạm các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể, cần phải chứng minh làm rõ hành vi của người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để không lên phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hoặc lên phương án bất hợp lý gây thiệt hại đến tài sản và lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có đất bị Nhà nước thu hồi.

Ngoài ra, cần chứng minh để làm rõ một số nội dung khác như: Sự việc xảy ra khi nào? Những ai biết, ai là người báo tin? Sự việc xảy ra ở đâu? Liên quan đến những đối tượng nào? Diễn biến của sự việc như thế nào?...

Thứ hai, phải xác định được ai là người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về đất đai? Có lỗi hay không có lỗi? Lỗi do cố ý hay vô ý? Người đó có năng lực trách nhiệm hình sự hay không?Động cơ, mục đích phạm tội? Có đồng phạm hay không có đồng phạm?

Nội dung chứng minh này nhằm làm rõ dấu hiệu pháp lý cơ bản về mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm về đất đai, cụ thể như sau:

- Chủ thể của tội phạm về đất đai phải là con người cụ thể đang sống, có tên, tuổi, quê quán, thường trú... có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật hình sự. Người đó đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong mặt khách quan của tội phạm. Trường hợp có ít nhất từ hai người trở lên, cố ý cùng thực hiện tội phạm (trường hợp đồng phạm) thì phải chứng minh làm rõ vị trí, vai trò là chủ mưu, cầm đầu, xúi giục, thực hành, giúp sức… của từng đối tượng cụ thểnhằm đảm bảo cá thể hóa hành vi và cá thể hóa hình phạt cho từng đối tượng.

- Người phạm tội về đất đai phải có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là, người phạm tội phải có đầy đủ năng lực nhận thức và năng lực hành vi, không mắc bệnh tâm thần và các khuyết tật khác về thể chất, ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng lực hành vi. Người thực hiện hành vi phạm tội phải đạt độ tuổi theo luật định, đó là người từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã thực hiện hành vi phạm tội đất đai được quy định tại khoản 3 Điều 228, Điều 229 và khoản 2, 3 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015. Người thực hiện hành vi phạm tội về đất đai chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp. Tức là, người phạm tội nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản đất đai là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện và mong muốn tội phạm được hoàn thành. Động cơ, mục đích phạm tội khá rõ ràng, đó là có tính chất vụ lợi hoặc tư lợi.

Thứ ba, cần phải chứng minh và làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29, Điều 51, Điều 52, Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); làm rõ các đặc điểm nhân thân của người phạm tội cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội

Cần phải làm rõ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng như có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; làm rõ các tình tiết giảm nhẹ như người phạm tội như ăn năn, hối cải; đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả… Trong quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai, cần phải làm rõ đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Cụ thể, phải làm rõ căn cước lai lịch; điều kiện kinh tế, hoàn cảnh bản thân và gia đình; tiền án, tiền sự; tái phạm, tái phạm nguy hiểm; phạm tội nhiều lần... Ngoài ra, cần xem xét nguyên nhân thực hiện hành vi phạm tội, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội (việc phân tích yếu tố điều kiện phạm tội còn xem xét sự buông lỏng quản lý, sự không chặt chẽ trong quy định của pháp luật dẫn đến việc phạm tội).

Thứ tư, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội về đất đai gây ra

Cần phải làm rõ toàn bộ thiệt hại về vật chất và tinh thần do tội phạm về đất đai gây ra cho bị hại và xã hội. Cụ thể, phải làm rõ hành vi phạm tội xâm hại đến khách thể nào? Gây thiệt hại như thế nào? Hậu quả tội phạm ra sao?...

Tóm lại, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai là hệ thống các tình tiết phản ánh về vụ án cần phải được làm rõ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự về đất đai là cơ sở để đề ra kế hoạch giải quyết vụ án, giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả cao, đồng thời, có thể tránh được các hoạt động tố tụng hình sự tuỳ tiện, không đúng quy định của pháp luật.

2. Trình tự điều tra vụ án hình sự về đất đai

Một là, tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo tội phạm về đất đai, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra tại hiện trường

Hoạt động điều tra vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố các vụ án về đất đai và kết thúc khi cơ quan điều tra hoàn thành việc điều tra, kết luận điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra đối với vụ án.

Khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm đất đai, điều tra viên đăng ký vào sổ thụ lý, báo cáo Thủ trưởng cơ quan điều tra phân công điều tra viên giải quyết, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát biết để tiến hành kiểm sát việc giải quyết tin, trong trường hợp khẩn cấp cần tiến hành công tác điều tra tại hiện trường để thu thập dấu vết, tài liệu, chứng cứ, vật chứng tại hiện trường vụ án hình sự về đất đai.

Hai là, áp dụng các biện pháp điều tra theo tố tụng hình sự, các biện pháp ngăn chặn và biện pháp nghiệp vụ khác để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm về đất đai

- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn để phục vụ cho việc tiến hành các hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đất đai, như giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm. Đây là những hoạt động nhằm bảo đảm cho quá trình điều tra vụ án hình sự về đất đai được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Đòi hỏi việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải đúng, có căn cứ, tránh trường hợp lạm dụng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

- Tiến hành các biện pháp điều tra các vụ án hình sự về đất đai theo tố tụng hình sự, như khám nghiệm hiện trường; thu thập các thông tin, tài liệu, vật chứng liên quan đến vụ án; khám xét, kê biên, phong tỏa tài sản; hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, người liên quan; trưng cầu giám định chuyên môn; định giá tài sản đất; nhận dạng; đối chất; thực nghiệm điều tra... nhằm mục đích thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội về đất đai, chứng cứ gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, các tình tiết khác liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của bị can và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự về đất đai.

Ba là, kết thúc điều tra

Kết thúc điều tra là một trong những nội dung quan trọng trong điều tra vụ án hình sự về đất đai. Khi có đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội về đất đai, cơ quan điều tra sẽ làm bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ vụ án hình sự về đất đai sang Viện kiểm sát để đề nghị truy tố. Kết luận điều tra phải phản ánh được toàn bộ kết quả của quá trình điều tra vụ án hình sự đất đai và dựa trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Khi có các căn cứ được quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì cơ quan điều tra sẽ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án./.

ThS. Nguyễn Thanh Mai

Học viện Tư pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm