Thứ ba 17/06/2025 01:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những vấn đề đặt ra trong điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện

Bộ luật Hình sự năm 2015 ra đời đánh dấu bước phát triển mang tính đột phá trong chính sách hình sự và tư duy lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân thương mại được quy định trong Bộ luật Hình sự, làm thay đổi tư duy truyền thống về tội phạm và hình phạt, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện ở Việt Nam, đồng thời tạo cơ sở pháp lý trong hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là đối với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

Trên cơ sở pháp luật hiện hành, việc điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện cần chú ý một số vấn đề:

Thứ nhất, theo Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015: “1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. 2. pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. 3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Pháp nhân thương mại trước hết là pháp nhân, tức một tổ chức được thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật; có cơ cấu tổ chức (có cơ quan điều hành và các cơ quan khác); có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Thứ hai, pháp nhân thương mại phải là các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế khác với mục tiêu hoạt động chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Như vậy, trong quá trình điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện đòi hỏi Cơ quan điều tra phải thu thập các tài liệu, chứng cứ xác định tư cách pháp lý của pháp nhân thương mại. Nếu không xác định đúng tư cách pháp lý của pháp nhân thương mại sẽ dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm sai về chủ thể thực hiện tội phạm.

Thứ ba, điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại. Khoản 1 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xác định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu TNHS khi thoả mãn đồng thời bốn điều kiện là: (1) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; (2) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại; (3) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; (4) Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS. Các điều kiện trên cũng chính là tiêu chuẩn để xác định hành vi của pháp nhân và một hành vi phạm tội phải thoả mãn bốn điều kiện trên thì hành vi đó mới là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại. Những điều kiện đó đặt ra yêu cầu đối với Cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định sự thoả mãn đồng thời của bốn điều kiện nêu trên.

Thứ , phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại. Theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 thuộc Bộ luật Hình sự, thuộc ba nhóm tội phạm là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường và các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Các tội phạm này tương ứng với các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của pháp nhân thương mại và các lĩnh vực phạm tội phổ biến do pháp nhân thương mại thực hiện trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do vậy, cần nghiên cứu, đánh giá, xác định hành vi vi phạm pháp luật của pháp nhân thương mại trong sự đối chiếu với các hành vi khách quan được mô tả trong 33 tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Thứ năm, tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Việc pháp nhân thương mại chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân”. TNHS của pháp nhân thương mại không thay thế, làm loại bỏ hoặc ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS đối với cá nhân. Như vậy, không được coi việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại về hành vi phạm tội là để thay thế cho việc truy cứu TNHS đối với cá nhân về hành vi phạm tội đó mà cá nhân phải đồng chịu trách nhiệm với TNHS về hành vi phạm tội, việc điều tra hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại không đồng nhất với điều tra hành vi phạm tội của cá nhân.

Thứ sáu, về người tham gia tố tụng hình sự khi pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS. Theo quy định tại Điều 434 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, mọi hoạt động tố tụng hình sự của pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại. Pháp nhân thương mại phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS được quy định tại Điều 435 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong đó người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phải có mặt theo giấy triệu tập, trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể ra quyết định dẫn giải. Trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra cần chủ động xác định, đảm bảo các quyền, nghĩa vụ và tiến hành các hoạt động tố tụng đối với của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại.

Thứ bảy, những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội. Theo quy định tại Điều 441, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Cơ quan điều tra cần xác định: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc TNHS của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự; Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS áp dụng đối với pháp nhân thương mại (Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội) và các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng TNHS (Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội; Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng; Phạm tội 02 lần trở lên; Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm).

Thứ tám, về các biện pháp cưỡng chế có thể áp dụng đối pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS. Theo quy định tại Điều 436 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử bao gồm: (1) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (2) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (3) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; (4) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án. Thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế nêu trên không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Từ đó, đòi hỏi Cơ quan điều tra căn cứ tình hình thực tiễn áp dụng kịp thời, chính xác biện pháp cưỡng chế đảm bảo quá trình điều tra diễn ra thuận lợi.

Tính đến thời điểm hiện nay, nước ta có 01 vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện được xét xử theo Điều 226 Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp[1]. Dưới phương diện lý luận cũng như thực tiễn, điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện xuất hiện một số vấn đề vướng mắc gây cản trở quá trình tiến hành tố tụng như: phân định TNHS giữa cá nhân với pháp nhân thương mại, xác định yếu tố lỗi, đồng phạm của pháp nhân thương mại, cơ quan tiến hành giám định sở hữu trí tuệ… Trong thời gian tới, nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức điều tra vụ án, về cơ bản theo chúng tôi cần tập trung vào các giải pháp cụ thể sau đây:

Một là, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nghiên cứu, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, từng bước tháo gỡ những phát sinh trong quá trình áp dụng, đặc biệt chú trọng giải quyết các vướng mắc trong điều tra các vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện. Hiện nay, liên quan đến 33 loại tội pháp nhân thương mại có thể vi phạm, chỉ có Điều 244 tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và Điều 324 tội rửa tiền có Nghị quyết hướng dẫn còn các loại tội mới vẫn tồn tại nhiều vấn đề khó khăn trong xử lý. Đồng thời, cần hướng dẫn áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại bị truy cứu TNHS, hướng dẫn vấn đề thời hiệu truy cứu TNHS nếu theo quy định tại Điều 9 và Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì các tội do pháp nhân thương mại thực hiện đều là tội phạm ít nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu TNHS của pháp nhân thương mại là 05 năm, các trường hợp khi pháp nhân thương mại phạm tội nhưng đã giải thể, tách, nhập…

Hai là, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của điều tra viên. Không khó để chúng ta có thể thống nhất trong nhận thức, quyết định tới chất lượng và hiệu quả điều tra vụ án hình sự là nhân tố con người, trong đó điều tra viên đóng vai trò trung tâm, then chốt. Khi có được đội ngũ điều tra viên có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và lập trường tư tưởng kiên định, vững vàng, có trình độ pháp luật, nghiệp vụ cao, có sự hiểu biết cần thiết về các lĩnh vực tri thức liên ngành khác, có thể chất tốt, thì nhất định hoạt động điều tra vụ án hình sự sẽ cho kết quả tốt. Xuyên suốt trong quá trình công tác, mỗi điều tra viên phải luôn quá triệt tinh thần tự học, học để hoàn thiện nâng cao trình độ bản thân, sửa chữa những lệch lạc, hạn chế, yếu kém, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng và phẩm chất cá nhân. Bên cạnh kiến thức nghiệp vụ về điều tra vụ án hình sự, cần đảm bảo hệ thống kiến thức pháp luật vững vàng, đặc biệt là các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động tố tụng như Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015…, các văn bản hướng dẫn thi hành và các biểu mẫu tố tụng hình sự. Điều tra viên cũng cần tự học hỏi, tự trang bị những kiến thức mềm trong quá trình điều tra vụ án như kỹ năng quan sát, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng các phương tiện điện tử…

Ba là, thường xuyên tiến hành sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện và điều tra các vụ án hình sự về 33 loại tội phạm pháp nhân thương mại có thể thực hiện. Đây là nội dung đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi diễn ra nhiều vụ án hình sự phức tạp nhất là các vụ án hình sự liên quan đến lĩnh vực quản lý kinh tế, lĩnh vực môi trường. Đối với nhóm tội phạm về môi trường việc phát hiện tội phạm thường không nhanh, có thể kéo dài 1 - 2 năm; việc thu thập dữ liệu, chứng cứ gặp nhiều khó khăn bởi các mẫu phân tích có thể thay đổi vào các thời điểm khác nhau; việc thu thập và bảo quản chứng cứ có nhiều phức tạp bởi có chứng cứ phải bảo quản, có chứng cứ buộc phải thả ngay như động vật hoang dã… Trên cơ sơ kết, tổng kết đánh giá tổng thể công tác điều tra các vụ án hình sự, cần nhanh chóng xác định các vụ án nào có tính điểm, có nhiều điểm mới để tiến hành phổ biến kinh nghiệm trong các Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an.

Bốn là, bảo đảm các điều kiện cho hoạt động của điều tra viên. Hiệu quả của hoạt động điều tra vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện chủ yếu thuộc nhóm tội phạm xâm phạm quản lý kinh tế, tội phạm môi trường nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện khoa học - kỹ thuật đảm bảo cho hoạt động điều tra. Theo đó, cần tiếp tục đầu tư, bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất, vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ cho hoạt động điều tra các vụ án hình sự do pháp nhân thương mại thực hiện. Đồng thời, cần chú trọng nâng cao trình độ, năng lực trong sử dụng các phương tiện kỹ thuật liên quan đến công tác điều tra cho điều tra viên.

Năm là, chú trọng ký Quy chế phối hợp giữa lực lượng chuyên trách với các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế và môi trường ở trung ương và địa phương liên quan đến phòng ngừa pháp nhân thương mại phạm tội. Trong nội dung Quy chế phối hợp cần lưu ý nhấn mạnh hoặc bổ sung những vấn đề có liên quan quan đến phòng, chống pháp nhân thương mại phạm tội, qua đó không chỉ góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm; mà còn tạo điều kiện cho lực lượng chuyên trách và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tập trung nguồn lực để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống pháp nhân thương mại phạm tội trong thời gian tới./.

ThS. Nguyễn Thị Hạnh Quyên & ThS. Hoàng Thịnh
Khoa Pháp luật, Học viện Chính trị Công an nhân dân

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm