Chủ nhật 08/06/2025 12:26
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phân loại và ý nghĩa của phân loại tranh chấp thương mại

Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách minh bạch và hiệu quả; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Trong đó, việc phân loại tranh chấp thương mại là cơ sở để đơn giản hóa và phân biệt những nhóm, những đối tượng có đặc điểm tương tự nhau, từ đó, hỗ trợ hoạt động kinh doanh, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng cho các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế.


1. Tranh chấp thương mại và phân loại tranh chấp thương mại

Hoạt động kinh doanh, thương mại luôn tồn tại hoặc phát sinh những tranh chấp như một tất yếu khách quan. Những quan hệ thương mại càng đa dạng và phức tạp thì khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn. Chính vì vậy, việc nắm rõ từng loại tranh chấp thương mại cũng là điều kiện để đưa ra những biện pháp giải quyết tranh chấp phù hợp.

Trước hết, cần hiểu thế nào là tranh chấp thương mại. Có nhiều cách hiểu khác nhau về dạng tranh chấp này, song từ góc độ pháp lý, có thể định nghĩa tranh chấp thương mại như sau: Tranh chấp thương mại là sự bất đồng quan điểm giữa các bên về việc một hoặc một số bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà mình cam kết trong hoạt động thương mại gây thiệt hại tới lợi ích chính đáng của một hoặc một số bên khác[1]. Từ thuật ngữ “tranh chấp thương mại” có thể thấy, bản chất của nó chính là một loại tranh chấp đặt trong quan hệ lĩnh vực thương mại. Tranh chấp này được thể hiện bằng sự bất đồng quan điểm giữa các bên, được hiểu là sự nhìn nhận các vấn đề trái ngược nhau từ phía - gắn với các chủ thể (ví dụ, bên bán cho rằng bên mua đã giao hàng cho mình không đúng chất lượng theo hợp đồng đã được ký kết, song bên mua thì không thừa nhận điều đó).

Ở đây, chúng tôi không đi sâu phân tích việc hiểu thế nào cho đúng về tranh chấp thương mại, mà tập trung phân tích việc phân loại các tranh chấp thương mại và ý nghĩa của việc phân loại đó. Theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các tranh chấp thương mại được chia ra làm 05 loại. Đó là: (i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (ii) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; (iv) Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (v) Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

2. Ý nghĩa của việc phân loại tranh chấp thương mại

Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (hoạt động kinh doanh, thương mại bao gồm: Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác). Các nhà làm luật không đề cập rõ các tranh chấp trên được phân loại căn cứ vào cơ sở nào, tuy nhiên, căn cứ vào các loại tranh chấp đó và các quy định liên quan, chúng ta dễ dàng hiểu rằng, các nhà làm luật đã căn cứ vào lĩnh vực để phân chia các tranh chấp thương mại. Theo chúng tôi, việc phân chia như vậy chưa cho thấy đầy đủ các loại tranh chấp thương mại phát sinh trong cuộc sống, căn cứ vào tính chất quốc tế (yếu tố nước ngoài), các tranh chấp thương mại còn có thể chia thành hai loại là: Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài và tranh chấp thương mại không có yếu tố nước ngoài, bởi lẽ, mỗi loại tranh chấp có những đặc thù riêng, liên quan tới tư cách pháp lý các chủ thể, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ khi ký kết hợp đồng cũng như khi thực hiện hợp đồng và liên quan đến quá trình giải quyết tranh chấp, nên nếu việc phân loại không rõ ràng thì khả năng nhận diện chính xác sẽ không được đảm bảo, dẫn đến hệ quả giải quyết tranh chấp không thỏa đáng.

Trước hết, cần nhận diện các tranh chấp thương mại được phân chia theo lĩnh vực. Trong đó, có hai vấn đề cần làm rõ: Xem xét từng loại tranh chấp để thấy tranh chấp đó khác gì với loại tranh chấp dân sự; từ đó, khẳng định được ý nghĩa của việc phân chia theo lĩnh vực thương mại. Cụ thể:

Thứ nhất, về tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại (lĩnh vực thương mại phổ biến): Các tranh chấp này rất dễ nhầm với các tranh chấp dân sự thông thường trong cùng lĩnh vực. Sự khác biệt với tranh chấp dân sự thông thường trong cùng lĩnh vực thể hiện ở hai yếu tố: (i) Chủ thể: Đối với tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại, các bên tranh chấp đều có đăng ký kinh doanh, còn đối với tranh chấp dân sự, chủ thể tham gia không bắt buộc đăng ký kinh doanh; (ii) Mục đích tham gia giao dịch: Đối với tranh chấp thương mại, các bên tranh chấp đều có mục đích tìm kiếm lợi nhuận, còn đối với tranh chấp dân sự, không cần yêu cầu các bên phải có mục đích lợi nhuận. Ví dụ, tranh chấp thương mại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa là tranh chấp về việc mua bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua, trong đó, bên bán và bên mua đều có đăng ký kinh doanh và đều nhằm mục đích lợi nhuận qua việc mua bán hàng hóa đó.

Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự thông thường đều giống nhau ở một số điểm như: (i) Có sự mua bán hàng hóa giữa bên bán và bên mua; (ii) Các điều khoản cơ bản của hợp đồng đều phải đáp ứng các quy định chung của pháp luật về loại hợp đồng này. Còn sự khác nhau ở đây được thể hiện ở một số điểm sau: (i) Trong tranh chấp thương mại, bên bán và bên mua đều là các thương nhân (các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh); (ii) Hai bên ký kết hợp đồng đều có mục đích lợi nhuận.

Ví dụ: Công ty A ký với công ty B một hợp đồng mua bán hàng hóa, theo đó, công ty A bán cho công ty B một số lượng hàng hóa để công ty B dùng làm nhiên liệu sản xuất. Trong trường hợp này, nếu có tranh chấp xảy ra, chúng ta gọi tranh chấp này là tranh chấp thương mại. Cũng về việc mua bán hàng hóa, công ty X ký hợp đồng mua một xe ô tô của một công dân A. Trong trường hợp này, nếu có tranh chấp xảy ra, chúng ta gọi tranh chấp này là tranh chấp dân sự. Vấn đề đặt ra ở đây là, tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự trên có gì khác biệt liên quan đến thủ tục, trình tự, quyền và nghĩa vụ các bên… trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trước hết, sự khác nhau ở đây là, đối với tranh chấp thương mại nêu trên, một trong số các điều kiện để hợp đồng được coi là hợp pháp đó là điều kiện về tư cách pháp lý của các bên ký kết hợp đồng phải căn cứ vào cả Luật Doanh nghiệp mà không phải chỉ căn cứ vào Bộ luật Dân sự. Bên cạnh đó, sự khác biệt còn ở nội dung hợp đồng mua bán giữa các bên trong tranh chấp thương mại nêu trên, cần căn cứ vào cả Luật Thương mại mà không phải chỉ là Bộ luật Dân sự như trong tranh chấp dân sự. Ngoài ra, sự khác biệt còn thể hiện trong việc giải quyết hai loại tranh chấp này: Đối với tranh chấp thương mại, phương thức trọng tài được áp dụng (nếu các bên chủ thể tranh chấp lựa chọn); đối với tranh chấp dân sự, phương thức trọng tài hầu như không được áp dụng. Sự nhận diện loại tranh chấp này trong phân biệt với các tranh chấp thương mại khác còn có ý nghĩa để xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp huyện hay cấp tỉnh. Ví dụ, theo điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này.

Thứ hai, về tranh chấp trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận: Chúng ta có thể lấy một ví dụ giả định như sau: Công ty A (bên chuyển giao) ký một hợp đồng chuyển giao công nghệ với công ty B (bên nhận chuyển giao), theo đó, bên chuyển giao cam kết không chuyển giao công nghệ nêu trong hợp đồng cho bên thứ ba trong phạm vi lãnh thổ quy định trong hợp đồng; bên nhận chuyển giao cam kết bảo đảm chất lượng sản phẩm sản xuất theo công nghệ nhận chuyển giao không thấp hơn chất lượng sản phẩm do bên chuyển giao sản xuất. Trong trường hợp bên nhận chuyển giao đã sản xuất ra sản phẩm nêu trong hợp đồng thấp hơn chất lượng sản phẩm mà bên chuyển giao sản xuất, bên chuyển giao kiện bên nhận chuyển giao ra Tòa án có thẩm quyền, chúng ta có thể khẳng định đây là tranh chấp thương mại. Các tranh chấp này cũng rất dễ nhầm với các tranh chấp dân sự trong cùng lĩnh vực, ví dụ: Có một cá nhân là tác giả của một cuốn sách kiện một một công ty in đã in sách của anh ta mà không hỏi ý kiến tác giả thì rõ ràng, đây là tranh chấp dân sự trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, chứ không phải là tranh chấp thương mại trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ. Trước hết, sự khác nhau ở đây là: Đối với tranh chấp thương mại nêu trên thì tranh chấp liên quan tới các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; đối với tranh chấp dân sự trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ thì tranh chấp thường liên quan tới việc bảo vệ quyền tác giả phát sinh ngoài hợp đồng. Cũng giống như các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại phổ biến, sự khác biệt ở đây cũng thể hiện trong việc giải quyết hai loại tranh chấp này: Đối với tranh chấp thương mại trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, phương thức trọng tài được áp dụng; đối với tranh chấp dân sự trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, phương thức trọng tài hầu như không được áp dụng.

Thứ ba, tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty, chúng ta có thể khẳng định, không có tranh chấp dân sự về vấn đề này.

Thứ tư, tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại doanh nghiệp (giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách), bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty, thì có thể khẳng định rằng, không có tranh chấp dân sự về vấn đề này. Về tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức lại doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty, thì đây là tranh chấp thương mại.

Một vấn đề phức tạp hơn là nhận diện các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài và các tranh chấp thương mại không có yếu tố nước ngoài. Tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài là tranh chấp thương mại có ít nhất một trong ba yếu tố nước ngoài sau: (i) Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể, đó là trường hợp một bên hoặc các bên quan hệ có quốc tịch hoặc nơi cư trú ở nước ngoài (đối với pháp nhân - nơi có trụ sở ở nước ngoài); (ii) Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể, đó là trường hợp tài sản - đối tượng của quan hệ ở nước ngoài; (iii) Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý, đó là trường hợp sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài.

Trên thực tế, thường xảy ra các trường hợp có những tranh chấp chỉ có yếu tố nước ngoài về một trong các mặt như chủ thể, khách thể, sự kiện pháp lý; hoặc, có yếu tố nước ngoài cả về mặt chủ thể và khách thể; hoặc, có yếu tố nước ngoài cả về mặt chủ thể và sự kiện pháp lý; hoặc, có yếu tố nước ngoài cả về mặt khách thể và mặt sự kiện pháp lý; hoặc, có yếu tố nước ngoài cả về mặt chủ thể, khách thể và sự kiện pháp lý.

Vấn đề đặt ra là, nếu yếu tố nước ngoài có trong tranh chấp thì việc giải quyết các tranh chấp ấy có gì khác biệt so với việc giải quyết các tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Khoa học pháp lý về tư pháp quốc tế chứng minh rằng, yếu tố nước ngoài có trong tranh chấp làm cho việc giải quyết tranh chấp có nhiều sự khác biệt so với việc giải quyết các tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Đó là việc xác định thẩm quyền Tòa án và trọng tài có thể thuộc Tòa án và trọng tài của các quốc gia khác nhau[2]. Ngoài ra, yếu tố nước ngoài còn tác động đến kết quả giải quyết tranh chấp vì các nguyên nhân sau: (i) Do các Tòa án và trọng tài của các quốc gia áp dụng pháp luật không giống nhau khi giải quyết tranh chấp; (ii) Các yếu tố nước ngoài có trong tranh chấp có thể là cơ sở để Tòa án và trọng tài các quốc gia áp dụng pháp luật của nước ngoài. Để hiểu rõ về từng yếu tố nước ngoài trong tranh chấp có tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp, cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể.

Yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp ở chỗ, khi một bên hoặc các bên có quốc tịch nước ngoài thì: (i) Thẩm quyền của Tòa án của một quốc gia thường được xác định theo dấu hiệu nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở (đối với pháp nhân) của bị đơn; (ii) Tư cách pháp lý của các bên nước ngoài thường được xác định theo pháp luật nước ngoài mà bên đó có quốc tịch hoặc nơi cư trú (đối với pháp nhân nơi có trụ sở). Ví dụ, về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài về mặt chủ thể, theo các điểm a và b khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi tranh chấp khi bị đơn là: Cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam; là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam.

Yếu tố nước ngoài về mặt khách thể tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp ở chỗ, khi tài sản là đối tượng của quan hệ ở nước ngoài thì: (i) Thẩm quyền của Tòa án của một quốc gia thường được xác định theo dấu hiệu nơi có tài sản (đặc biệt khi tài sản là bất động sản); (ii) Quyền và nghĩa vụ các bên liên quan tới quyền sở hữu thường được xác định theo pháp luật nước ngoài nơi có tài sản[3]. Ví dụ, về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài về mặt khách thể, theo các điểm c và d khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi: Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam; vụ việc về quan hệ dân sự mà đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên lãnh thổ Việt Nam.

Yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý tác động đến quá trình giải quyết tranh chấp ở chỗ, khi sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài thì: (i) Thẩm quyền của Tòa án của một quốc gia có thể được xác định theo dấu hiệu nơi thực hiện hợp đồng; (ii) Quyền và nghĩa vụ của các bên có thể được xác định theo pháp luật nước ngoài nơi thực hiện hợp đồng. Ví dụ, về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài về mặt sự kiện pháp lý, theo các điểm d và e khoản 1 Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi: Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở Việt Nam, công việc được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.

Tóm lại, phân loại tranh chấp thương mại là cơ sở để đơn giản hóa và phân biệt những nhóm, những đối tượng có đặc điểm tương tự nhau. Từ đó, hỗ trợ hoạt động kinh doanh, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng cho các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế, hỗ trợ công tác giải quyết tranh chấp thương mại bằng các biện pháp mang tính ôn hòa (hòa giải, thương lượng), hay các biện pháp có sự can thiệp của quyền lực nhà nước (Tòa án, trọng tài thương mại) khi các chủ thể có yêu cầu. Bài viết chỉ tập trung phân loại và ý nghĩa từ việc phân loại các tranh chấp thương mại nhằm khẳng định vai trò lý luận mang tính nền tảng của nó. Qua đó, thiết nghĩ, các tranh chấp thương mại cần được xác định rõ ràng, tránh sự nhầm lẫn với tranh chấp dân sự tương tự. Dù tranh chấp được phân loại theo lĩnh vực thì vẫn cần kết hợp với việc có yếu tố nước ngoài hay không có yếu tố nước ngoài để bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá tính chất phức tạp của vấn đề, gắn với thẩm quyền của các chủ thể liên quan đúng với quy định của pháp luật.

PGS.TS. Nguyễn Trung Tín

Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Nhà nước và Pháp luật

TS. Nguyễn Thị Thuận & Lương Thị Bích Ngân

Khoa Luật, Đại học Duy Tân



[1]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Thương mại, Tập II, Nxb. Công an nhân dân, tr. 432.

[2]. Tre Sưr Nopt (Matxcơva - 1982), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tiến bộ, tr. 363 - 367.

[3]. Trung tâm Đào tạo Từ xa, Đại học Huế (2013), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, tr. 217.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm