Chủ nhật 15/06/2025 22:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật về chế độ tập sự của công chức - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Để đảm bảo hiệu quả của công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức nhằm hướng đến mục đích xây dựng một đội ngũ công chức đủ đức, đủ tài để thực hiện các hoạt động công vụ, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định về chế độ tập sự đối với công chức mới được tuyển dụng. Nội dung này được hướng dẫn cụ thể tại mục 5 Chương 2 của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 03 năm 2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức (“Nghị định số 24/2010/NĐ-CP”). Bài viết sẽ phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tập sự của công chức, chỉ ra một số bất cập còn tồn tại và đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện vấn đề này.

Abstract: To ensure the effectiveness of the work of recruitment, employment and management of civil servants aiming to build a contingent of civil servants sufficient enough ability to make the public duties, Law on Cadres and Civil servants 2008 regulates the probation regime for new civil servants are employed. This content specific guidance in section 5 Chapter 2 of Decree No. 24/2010/ND-CP on January 15, 2010 of the Government regulations on recruitment, employment and management of civil servants (“Decree No. 24/2010/ND-CP”). The article analyzes the provisions of current legislation about the probation regime of civil servants, indicates some inadequacies exist and makes specific suggestions in order to improve this issue.

1. Quy định của pháp luật về chế độ tập sự đối với công chức

Thứ nhất, về đối tượng phải thực hiện chế độ tập sự
Điều 40 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định người được tuyển dụng vào công chức phải thực hiện chế độ tập sự theo quy định của Chính phủ. Cụ thể hóa nội dung này, Điều 20 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP quy định người được tuyển dụng vào công chức phải thực hiện chế độ tập sự để làm quen với môi trường công tác, tập làm những công việc của vị trí việc làm được tuyển dụng. Theo quy định tại điều này, đối tượng phải thực hiện chế độ tập sự là những người được tuyển dụng vào vị trí công chức loại C tức là những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương và công chức loại D là những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tương đương và ngạch nhân viên mới phải thực hiện chế độ tập sự. Đối với công chức loại A là những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp hoặc tương đương và công chức loại B là những người được bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên chính hoặc tương đương sẽ không phải trải qua chế độ tập sự[1]. Ngoài ra, Nghị định số 24/2010/NĐ-CP còn quy định các trường hợp đã có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bằng hoặc lớn hơn thời gian tập sự theo quy định của pháp luật thì không phải thực hiện chế độ tập sự. Để được miễn chế độ tập sự, các đối tượng này phải đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau: (i) Đã có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc bằng hoặc lớn hơn thời gian tập sự theo quy định tương ứng với ngạch công chức được tuyển dụng và (ii) Trong thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, người được tuyển dụng đã làm những công việc theo yêu cầu của ngạch công chức được tuyển dụng[2]. Nếu thiếu một trong các điều kiện này, người trúng tuyển vẫn phải thực hiện chế độ tập sự theo quy định.

Thứ hai, thời gian tập sự
Thời gian tập sự của công chức được quy định dựa trên sự phân loại công chức, theo đó thời gian tập sự đối với người được tuyển dụng vào công chức loại C là 12 tháng, đối với người được tuyển dụng vào công chức loại D là 06 tháng. Đối với người được tuyển dụng vào công chức dự bị trước ngày 01/01/2010 theo quy định của Pháp Lệnh cán bộ, công chức, thì chuyển sang thực hiện chế độ tập sự; thời gian đã thực hiện chế độ công chức dự bị được tính vào thời gian tập sự. Đối với trường hợp nghỉ sinh con theo chế độ bảo hiểm xã hội và thời gian nghỉ ốm đau, bị tạm giam, tạm giữ, tạm đình chỉ công tác theo quy định của pháp luật thì các khoảng thời gian này không được tính vào thời gian tập sự. Các trường hợp không thỏa mãn điều kiện được miễn chế độ tập sự nhưng người được tuyển dụng đã có thời gian làm những công việc theo yêu cầu của ngạch công chức được tuyển dụng thì được tính vào thời gian tập sự.

Thứ ba, nội dung tập sự
Trong thời gian tập sự, người tập sự công chức được hướng dẫn để nắm vững quy định của Luật Cán bộ, công chức về quyền, nghĩa vụ của công chức, những việc công chức không được làm; nắm vững cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác, nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị và chức trách, nhiệm vụ của vị trí việc làm được tuyển dụng. Bên cạnh đó, công chức tập sự còn được trau dồi kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng. Ngoài ra, họ sẽ tập giải quyết, thực hiện các công việc của vị trí chuyên môn được tuyển dụng. Nội dung tập sự của công chức nhằm mục đích giúp công chức hiểu rõ các quy định của pháp luật về quy chế pháp lý của mình cũng như cơ quan nơi mình công tác đồng thời tiếp xúc và làm quen với việc giải quyết các công việc liên quan đến vị trí công tác để có thể đáp ứng được yêu cầu của vị trí công việc trong tương lai sau khi được bổ nhiệm chính thức vào ngạch công chức.

Thứ tư, chế độ và chính sách trong thời gian tập sự
Trong thời gian tập sự, người tập sự được hưởng 85% mức lương bậc 1 của ngạch tuyển dụng; trường hợp người tập sự có trình độ thạc sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 2 của ngạch tuyển dụng; trường hợp người tập sự có trình độ tiến sĩ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì được hưởng 85% mức lương bậc 3 của ngạch tuyển dụng. Đối với các khoản phụ cấp, người tập sự được hưởng theo quy định của pháp luật. Người tập sự được hưởng 100% bậc lương tương ứng với các trình độ nêu trên trong các trường hợp sau: (i) Làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (ii) Làm việc trong các ngành, nghề độc hại nguy hiểm; (iii) Là người hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ phục vụ có thời hạn trong lực lượng công an nhân dân, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, người làm công tác cơ yếu chuyển ngành, đội viên thanh niên xung phong, đội viên trí thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi từ đủ 24 tháng trở lên đã hoàn thành nhiệm vụ. Thời gian tập sự không được tính vào thời gian xét nâng bậc lương sau. Công chức được cơ quan phân công hướng dẫn tập sự được hưởng hệ số phụ cấp trách nhiệm bằng 0,3 so với mức lương tối thiểu trong thời gian hướng dẫn tập sự.

Thứ năm, bổ nhiệm vào ngạch công chức đối với người hoàn thành chế độ tập sự
Khi hết thời gian tập sự, người tập sự phải báo cáo kết quả tập sự bằng văn bản; người hướng dẫn tập sự phải nhận xét, đánh giá kết quả tập sự đối với người tập sự bằng văn bản, gửi cơ quan sử dụng công chức. Người đứng đầu cơ quan sử dụng công chức đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức và kết quả công việc của người tập sự. Trường hợp người tập sự đạt yêu cầu của ngạch công chức đang tập sự thì có văn bản đề nghị cơ quan quản lý công chức ra quyết định bổ nhiệm và xếp lương cho công chức được tuyển dụng.

Thứ sáu, hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự
Người tập sự có thể bị hủy bỏ quyết định tuyển dụng khi rơi vào một trong hai trường hợp sau: (i) Người tập sự không hoàn thành nhiệm vụ; hoặc (ii) Bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời gian tập sự. Khi xảy ra các trường hợp này, người đứng đầu cơ quan sử dụng công chức đề nghị cơ quan quản lý công chức ra quyết định bằng văn bản hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự. Người tập sự bị hủy bỏ quyết định tuyển dụng được cơ quan sử dụng công chức trợ cấp 01 tháng lương, phụ cấp hiện hưởng và tiền tàu xe về nơi cư trú.

2. Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về chế độ tập sự của công chức
Bên cạnh những điểm tích cực, các quy định này vẫn còn tồn tại một số điểm chưa phù hợp, cụ thể như sau:

Một là, các quy định về chế độ, chính sách đối với công chức tập sự chưa bao quát được hết các trường hợp diễn ra trong thực tiễn. Cụ thể là, chưa có quy định hướng dẫn về việc thay đổi bậc lương trong thời gian tập sự khi công chức tập sự có được bằng cấp cao hơn tương ứng với ngạch được tuyển dụng. Ví dụ, ngày 15/08/2015, ông A được tuyển dụng vào vị trí là chuyên viên tư pháp hộ tịch thuộc Sở Tư pháp tỉnh K, theo quy định ông A được xếp vào ngạch công chức loại C, thời gian tập sự là 12 tháng. Khi được tuyển dụng, ông A có trình độ Cử nhân Luật nên sẽ được hưởng 85% mức lương bậc 1 của ngạch chuyên viên. Tuy nhiên, trong thời gian tập sự, ông A đã học tập nâng cao trình độ và được cấp bằng Thạc sĩ Luật học vào ngày 10/02/2016, câu hỏi đặt ra là từ ngày 10/02/2016 cho đến khi kết thúc thời gian tập sự vào ngày 14/08/2016, ông A sẽ được hưởng 85% mức lương bậc 2 của ngạch chuyên viên vì có trình độ thạc sĩ hay vẫn hưởng lương ở bậc 1. Vấn đề này vẫn chưa được quy định một cách rõ ràng dẫn đến trong thực tiễn việc công chức tập sự được hưởng bậc lương ở mức cao hơn hay không phụ thuộc vào quyết định của cơ quan tuyển dụng công chức. Thực tế này trong một số trường hợp chưa tạo ra sự thống nhất trong áp dụng pháp luật cũng như gây thiệt hại cho các công chức tập sự khi họ không được hưởng mức lương tương ứng với trình độ thực tế của mình.

Hai là, chưa có sự thống nhất về thời gian đánh giá công chức với thời gian tập sự. Các quy định về việc đánh giá công chức hiện hành được áp dụng theo Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/06/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức (“Nghị định số 56/2015/NĐ-CP”), có hiệu lực từ ngày 01/8/2015. Theo hướng dẫn tại Nghị định này, việc đánh giá, phân loại công chức được thực hiện theo từng năm công tác. Công chức khi chuyển công tác thì cơ quan, tổ chức, đơn vị mới có trách nhiệm đánh giá, phân loại kết hợp với ý kiến nhận xét của cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ (đối với trường hợp có thời gian công tác ở cơ quan, tổ chức, đơn vị cũ từ 06 tháng trở lên). Thời điểm đánh giá, phân loại công chức được tiến hành trong tháng 12 hàng năm. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và một số lĩnh vực khác có thời điểm kết thúc năm công tác trước tháng 12 hàng năm, thời điểm đánh giá, phân loại công chức do người đứng đầu quyết định[3]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, một trong những căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự đó là trường hợp người tập sự không hoàn thành nhiệm vụ. Cơ sở để đánh giá công chức tập sự có hoàn thành nhiệm vụ hay không phải căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị định số 56/2015/NĐ-CP. Tuy nhiên, giữa Nghị định số 24/2010/NĐ-CP và Nghị định số 56/2015/NĐ-CP chưa có sự thống nhất về thời điểm đánh giá đối với công chức tập sự. Theo Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, thời điểm đánh giá đối với công chức tập sự là khi hết thời gian tập sự, tức là hết 12 tháng đối với người được tuyển dụng vào công chức loại C, 06 tháng đối với công chức loại D, như vậy thời điểm thực hiện việc đánh giá công chức tập sự có thể là bất kỳ tháng nào trong năm. Ví dụ, trong trường hợp của ông A nói trên, thời gian ông A tập sự tại Sở Tư pháp tỉnh K là 12 tháng từ ngày 15/08/2015 đến hết ngày 14/08/2016, như vậy thời gian đánh giá đối với ông A là tháng 8 năm 2016. Trong khi theo Nghị định số 56/2015/NĐ-CP, quy định thời gian đánh giá công chức là tháng 12 hàng năm, như vậy, thời gian đánh giá đối với ông A sẽ là tháng 12 năm 2016. Như vậy, có thể thấy rằng chưa có sự thống nhất về thời điểm đánh giá đối với công chức tập sự trong hai Nghị định nói trên, thiết nghĩ Nghị định số 56/2015/NĐ-CP cần bổ sung thêm quy định về thời gian đánh giá công chức tập sự để phù hợp với hướng dẫn của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP.

Ba là, bên cạnh tiêu chí không hoàn thành nhiệm vụ, theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, người tập sự công chức có thể bị hủy bỏ quyết định tuyển dụng nếu bị xử lý kỷ luật từ khiển trách trở lên trong thời gian tập sự. Xét về mặt kỹ thuật lập pháp, quy định này có phần chưa phù hợp với quy định pháp luật về các hình thức xử lý kỷ luật áp dụng đối với công chức. Theo quy định tại Điều 79 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, khi có hành vi vi phạm kỷ luật, công chức vi phạm có thể bị áp dụng một trong các hình thức xử lý kỷ luật sau: Khiển trách; cảnh cáo; hạ bậc lương; giáng chức; cách chức; buộc thôi việc. Trong đó, giáng chức và cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Nếu xét về mức độ tăng nặng của các hình thức xử lý kỷ luật đối với công chức nêu trên, thì mức độ tăng nặng được quy định theo hướng tăng dần, theo đó từ khiển trách đến buộc thôi việc thì khiển trách là hình thức xử lý kỷ luật nhẹ nhất và buộc thôi việc là hình thức xử lý kỷ luật nghiêm khắc nhất. So sánh với quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP nói trên, việc sử dụng cụm từ “từ khiển trách trở lên” có vẻ không phù hợp bởi khi dùng như vậy người đọc dễ hiểu rằng có hình thức kỷ luật nhẹ hơn khiển trách nên mới dùng hình thức khiển trách làm “mốc khởi điểm” để xác định mức độ nặng, nhẹ của các hình thức kỷ luật làm căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với người tập sự công chức; trong khi đó, theo phân tích ở trên, khiển trách là hình thức xử lý kỷ luật nhẹ nhất trong các hình thức xử lý kỷ luật áp dụng đối với công chức. Điều đó đồng nghĩa rằng, chỉ cần người tập sự công chức bị xử lý kỷ luật thì việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật nào cũng có thể là căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyển dụng đối với họ chứ không cần phải “từ khiển trách trở lên” như khoản 1 Điều 24 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP.

3. Kiến nghị hoàn thiện

Để khắc phục các bất cập như đã phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần bổ sung quy định về việc nâng bậc lương tương ứng với trình độ của công chức tập sự trong thời gian tập sự để đảm bảo quyền lợi của người tập sự tương ứng với sự thay đổi trình độ của họ. Có thể bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP như sau: “Trong thời gian tập sự, nếu người tập sự công chức có sự nâng cao trình độ phù hợp với yêu cầu tuyển dụng thì sẽ được hưởng mức lương ở bậc cao hơn của ngạch tuyển dụng tương ứng với trình độ của công chức tính từ tháng tiếp theo của tháng người đó nộp văn bằng tương ứng”.

Thứ hai, cần bổ sung quy định về thời điểm đánh giá đối với công chức tập sự trong Nghị định số 56/2015/NĐ-CP để phù hợp với quy định trong Nghị định số 24/2010/NĐ-CP. Theo đó, cần bổ sung khoản 2 Điều 5 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP như sau: “Thời điểm đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức được tiến hành trong tháng 12 hàng năm. Đối với người tập sự, thời điểm đánh giá, phân loại là thời điểm kết thúc thời gian tập sự”.

Thứ ba, cần sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP để phù hợp với kỹ thuật lập pháp cũng như hạn chế sự hiểu lầm trong việc diễn giải và áp dụng pháp luật. Tác giả kiến nghị cần sửa đổi như sau: “Quyết định tuyển dụng bị hủy bỏ trong trường hợp người tập sự không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị xử lý kỷ luật theo bất cứ hình thức kỷ luật nào áp dụng đối với công chức trong thời gian tập sự”.

Thứ tư, để nâng cao hiệu quả tập sự và có sự đánh giá khách quan, chính xác kết quả tập sự của công chức, tác giả đề xuất cơ quan tuyển dụng công chức cần tổ chức kiểm tra kiến thức pháp luật và năng lực chuyên môn của công chức khi hết thời gian tập sự. Nội dung kiểm tra là các kiến thức về quy định của Luật Cán bộ, công chức liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công chức, những việc công chức không được làm; cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác, nội quy, quy chế làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị và chức trách, nhiệm vụ của vị trí việc làm được tuyển dụng; kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng. Kết quả kiểm tra có thể được dùng là một trong những căn cứ để đánh giá kết quả tập sự của công chức.

Nguyễn Nhật Khanh

Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh


[1] Xem thêm Khoản 1 Điều 34 Luật Cán bộ, công chức năm 2008, căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được phân thành 4 loại: loại A, loại B, loại C và loại D.

[2] Khoản 1 Điều 12 Thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày 30/12/2010 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết một số điều về tuyển dụng và nâng ngạch công chức của Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/03/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.

[3] Điều 5 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/06/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm