Thứ năm 12/06/2025 16:59
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm của một số quốc gia

Tóm tắt: Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận kinh tế quan trọng của mỗi quốc gia. Những năm gần đây, hoạt động quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã có sự tiến bộ đáng kể

Tóm tắt: Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận kinh tế quan trọng của mỗi quốc gia. Những năm gần đây, hoạt động quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã có sự tiến bộ đáng kể, song vẫn còn có những hạn chế nhất định. Trong bài viết này, tác giả trình bày về thực trạng quản trị doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam và tham khảo bài học kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới.

Abstract: Administration of state-owned enterprises is an important economic part of every nation. State-owned enterprise administration in Vietnam has achieved substantial progress in recent years, but still has certain insufficiencies. In this article, the author presents the real situation of state-owned enterprise administration of Vietnam and refers to experience from some nations in the world.

1. Doanh nghiệp nhà nước và quản trị doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước không phải là khái niệm chỉ xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa mà tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, theo quan điểm của các nước, khái niệm doanh nghiệp nhà nước không giống nhau. Ví dụ, tiêu chí về quyền sở hữu của Nhà nước trong doanh nghiệp nhà nước là khác nhau, ở Úc là trên 50%, ở Tây Ban Nha là trên 50%, ở Italia là 25%, Malaysia là 20%, Hàn Quốc là 10%. Trong khi đó, theo Luật Công ty của Trung Quốc, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần khống chế từ 35% trở lên.

Ở nước ta, quan điểm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ cũng đã có sự thay đổi rất nhiều. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quy định: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”[1]. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định lại tỉ lệ vốn điều lệ khi xác định doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, “doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”[2].

Quản trị doanh nghiệp nhà nước về cơ bản không có gì khác biệt nhiều so với quản trị doanh nghiệp nói chung. Theo đó, quản trị doanh nghiệp nhà nước chính là quá trình điều hành, kiểm soát và tác động liên tục để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp nhà nước theo đúng quy định của pháp luật. Quản trị doanh nghiệp nhà nước là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của người chủ doanh nghiệp làm tập thể những người lao động trong doanh nghiệp “được tạo ra bởi Chính phủ để thực hiện các hoạt động thương mại thay mặt chính phủ”[3] sử dụng một cách tốt nhất những tiềm năng và cơ hội để tiến hành hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội.

2. Quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

2.1. Quản trị chiến lược

Trong môi trường hội nhập với nhiều biến đổi, quản trị chiến lược giúp doanh nghiệp nhà nước có thể nhanh chóng thích nghi với sự thay đổi để tồn tại và phát triển. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đã thành lập các phòng nghiên cứu chiến lược, các bộ phận tham mưu chiến lược, cùng với sự tham gia hoạch định của nhiều cơ quan, bộ phận trong doanh nghiệp. Ví dụ, Tập đoàn Bảo Việt đã thành lập Ủy ban Chiến lược và Đầu tư trực thuộc Hội đồng quản trị, có chức năng hoạch định chiến lược phát triển, đánh giá kết quả thực hiện chiến lược kinh doanh và đề xuất thay đổi về chiến lược kinh doanh của toàn tập đoàn… Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng được những chiến lược tốt, chọn lựa những sản phẩm mà doanh nghiệp có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường. Ví dụ tiêu biểu là việc xây dựng chiến lược ở Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Quân đội (Viettel). Viettel đã tạo ra áp lực giảm giá đối với các hãng điện thoại, đưa điện thoại gần hơn với người dân và vươn xa hơn tới mọi miền tổ quốc. Sau khi thành công ở thị trường trong nước, Viettel chuyển hướng sang thị trường nước ngoài.

Bên cạnh những điểm tích cực, quản trị chiến lược tại các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục, các chiến lược mới chủ yếu xác định mục tiêu, lĩnh vực kinh doanh, chứ chưa có sự phân tích sâu sắc những yếu tố nội tại của doanh nghiệp, cũng như dự báo các tác động bên ngoài để bảo đảm thành công. Các cấp lãnh đạo cần thay đổi tư duy dựa dẫm vào những ưu đãi mà Nhà nước dành cho thì mới thực sự cạnh tranh công bằng với những doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.

2.2. Quản trị nguồn nhân lực

Một trong những đòi hỏi quan trọng nhất để các doanh nghiệp nhà nước phát triển trong giai đoạn hội nhập là nhân lực có trình độ. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp nhà nước không chỉ thiếu mà đang bị dần mất đi do sức hút từ bộ phận doanh nghiệp ngoài nhà nước. Nếu xét theo loại hình kinh doanh, năm 2014, doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tỷ lệ lớn nhất với khoảng 96,4% giải quyết được 59,5% trong tổng số gần 12 triệu lao động. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm 0,8% tổng số lượng và tạo việc làm cho khoảng 11,9% lao động[4].

Công tác tuyển dụng được tiến hành theo quy trình chặt chẽ, bao gồm những phương pháp và kỹ thuật khác nhau tùy lĩnh vực hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Việc tuyển dụng thường tiến hành dựa trên chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, để phục vụ và chuẩn bị cho chương trình phát triển điện hạt nhân của quốc gia đến năm 2020, Tập đoàn Điện lực đã tiến hành tuyển dụng, đào tạo nhân lực cho chiến lược phát triển mới này. Theo đó, hàng năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với tập đoàn và các đơn vị liên quan tuyển sinh cán bộ, sinh viên đi đào tạo kỹ sư, thạc sỹ các chuyên ngành điện hạt nhân tại Đại học Nghiên cứu hạt nhân Quốc gia Nga. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác này vẫn còn tồn tại những mặt chưa tích cực. Cụ thể, việc tuyển chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ ở một số doanh nghiệp nhà nước còn tùy tiện, thậm chí mang tính gia đình…, trong tổ chức quản lý, sử dụng nhân sự còn thiếu rõ ràng, công khai, minh bạch, cơ chế kiểm tra, giám sát chậm; việc kiểm tra nội bộ kém, thiếu cơ chế dân chủ trong công tác cán bộ.

Về đào tạo và phát triển, các doanh nghiệp nhà nước đều đưa ra nhiều giải pháp và hình thức đào tạo khác nhau theo hướng đẩy mạnh đào tạo ngành nghề theo mũi nhọn, ngành công nghệ cao có tính quyết định đến sản xuất, kinh doanh của mình. Ví dụ, tại Viettel, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên được đẩy mạnh ở các cấp, bằng nhiều hình thức, cả đào tạo ở trong nước và nước ngoài. Tập đoàn có chính sách hỗ trợ về tài chính để khuyến khích, động viên cán bộ, nhân viên tự học nâng cao trình độ, tay nghề.

Về chính sách đãi ngộ, hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn trả lương theo hệ thống thang, bảng lương và chế độ phụ cấp do Nhà nước quy định. Ngoài lương cơ bản được tính theo hệ số, người lao động còn được hưởng lương kinh doanh. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ tại các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Chính sách lương thưởng vẫn nặng tính bình quân chủ nghĩa, tiền lương còn cào bằng giữa lao động quản lý và nhân viên, giữa công việc phức tạp và đơn giản, chưa phản ánh đúng quan hệ công việc là nguyên nhân của hiện tượng chảy máu chất xám.

2.3. Quản trị chất lượng

Trước sức ép cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đã tìm cách tổ chức việc quản trị chất lượng theo hướng tìm hiểu nhu cầu thị trường, tìm hiểu tâm lý khách hàng, tìm những phương thức thích hợp để quản lý chất lượng như TQM, ISO, HACCP, 5S… nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, chú trọng đến đổi mới công nghệ và các giải pháp quan trọng khác liên quan trực tiếp đến đảm bảo chất lượng sản phẩm. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đều triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000.

2.4. Quản trị tài chính

Về vấn đề huy động vốn, Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp đã giúp cho các doanh nghiệp chủ động trong việc huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế huy động và sử dụng vốn chưa phát huy được hết tính chủ động, sáng tạo của các công ty con. Việc phân cấp, phân quyền, nhất là quyền đầu tư, mua sắm, nhượng bán, cho thuê hoặc thế chấp, cầm cố tài sản để đi vay hoặc cho vay, cho nợ... vẫn chưa được thiết lập cụ thể từ thủ trưởng đơn vị quyết định thành lập cho đến Hội đồng thành viên và giám đốc các công ty con. Cơ chế điều hòa vốn trong toàn doanh nghiệp nhà nước chưa được xác định một cách rõ ràng, đầy đủ. Cơ chế hoạt động huy động vốn từ nội bộ còn ít, trong khi khả năng có thể huy động được nhiều hơn nữa cho sản xuất, kinh doanh, do thủ tục rườm rà, cứng nhắc, hạn mức cho vay thấp, không đảm bảo vốn cho các dự án đúng tiến độ, thời hạn thanh toán ngắn, đôi khi các khoản vay giữa các công ty không thực sự tự nguyện mà do sức ép của công ty mẹ.

Về phân phối và tái đầu tư, doanh nghiệp nhà nước gần như có toàn quyền trong các quyết định đầu tư mới của mình, song với tư cách là chủ đầu tư, vai trò và thể chế điều tiết liên quan đến các chính sách tài trợ, phân phối vẫn chưa rõ. Đối với việc chia sẻ lợi ích bên trong, doanh nghiệp nhà nước mới hướng vào sản xuất, kinh doanh mà chưa chú trọng xây dựng cơ chế rõ ràng về chia sẻ lợi ích từ kết quả và lợi nhuận phát sinh từ liên kết trong doanh nghiệp nhà nước.

Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là các tập đoàn, tổng công ty và các công ty theo mô hình công ty mẹ - con, vì vậy, báo cáo tài chính hợp nhất có ý nghĩa hết sức quan trọng, song hiện nay còn nhiều thiếu sót, việc loại trừ các giao dịch nội bộ thể hiện qua các khoản công nợ, doanh thu, chi phí, lãi lỗ chưa triệt để nên báo cáo tài chính hợp nhất không chính xác, không thể hiện một cách trung thực thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho một số đối tượng liên quan như các nhà đầu tư, các tổ chức ngân hàng, tín dụng, chứng khoán… khi đánh giá và đưa ra quyết định chính xác.

3. Tham khảo bài học kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới

3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc[5]

Doanh nghiệp nhà nước tại Trung Quốc là thành phần kinh tế quan trọng, chủ đạo của nền kinh tế Trung quốc. Về quản trị tài chính, Chính phủ Trung Quốc đã tạo điều kiện để da dạng hóa hơn các hình thức huy động vốn cho các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình tái cấu trúc nhằm giải quyết vấn đề vốn và giảm sự phụ thuộc vào các ngân hàng nhà nước, tập trung đẩy mạnh cổ phần hóa và khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước nhanh chóng tiến hành niêm yết cổ phiếu của mình trên sàn chứng khoán ở cả trong nước và ngoài nước nhằm tăng cường thu hút vốn. Ngoài ra, Trung Quốc đã tiến hành xác định những ngành nghề không cần có sự tham gia của Nhà nước và thực hiện thoái vốn thông qua một số hình thức như chào bán, đấu giá, đấu thầu công khai.

Về cấu trúc quản trị doanh nghiệp, quá trình cải cách, đổi mới cơ cấu quản trị doanh nghiệp là một trong ba trọng tâm của quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc. Một là, hội đồng quản trị có vai trò giám sát nội bộ chấp hành nghị quyết của Đại hội cổ đông, phụ trách xây dựng phương án, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Hai là, sử dụng chế độ quản trị bên ngoài chuyên trách trong quá trình xây dựng hội đồng quản trị cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các thành viên bên ngoài này do Ủy ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước tuyển chọn. Ba là, các doanh nghiệp tăng cường công khai, minh bạch của các hoạt động thông qua hội đồng giám sát.

Về tái cấu trúc nguồn nhân lực, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành hơn 10 bộ văn bản pháp quy liên quan đến lao động để hỗ trợ cho quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, các bộ luật chú trọng và đi sâu vào đầu ra của chi phí nguồn nhân lực, hướng đến hiệu quả và thưởng phạt rõ ràng, loại bỏ chế độ kế hoạch hóa trong sử dụng lao động. Các doanh nghiệp nhà nước đã có được một tỷ trọng đáng kể đội ngũ cán bộ có thể nắm bắt được các kỹ năng quản lý hiện đại. Về giải quyết vấn đề lao động dôi dư trong quá trình tái cấu trúc, Trung Quốc đã áp dụng rất nhiều biện pháp như: Bán bớt tài sản, bổ sung nguồn bồi thường đối với các lao động nghỉ việc hoặc lưu chuyển, biến những người lao động của mình trở thành những cổ đông của công ty.

Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc đối với các nền kinh tế chuyển đổi là kinh tế nhà nước phải chiếm vị trí chi phối đối với những ngành nghề quan trọng hoặc lĩnh vực then chốt có liên quan đến nền kinh tế quốc dân, giảm bớt tỷ trọng kinh tế nhà nước nhưng vẫn đảm bảo chi phối của kinh tế nhà nước.

3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc[6]

Quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc được thực hiện theo mô hình ba cấp: Ở cấp độ doanh nghiệp, Chính phủ thực hiện trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạn chế mâu thuẫn trong đại diện và phát huy tối đa tính sáng tạo, chủ động trong kinh doanh. Nhà nước thực hiện tư nhân dần dần theo quá trình tái cơ cấu liên tục để đảm bảo tính chắc chắn trong hiệu quả của quá trình cải cách. Ở cấp ngành, Chính phủ khuyến khích phát triển môi trường kinh doanh cạnh tranh nhằm hạn chế tính tổ chức và độc quyền tự nhiên của các doanh nghiệp nhà nước. Ở cấp độ quốc gia, Hàn Quốc thực thi và tăng tính hiệu quả của các áp lực thị trường, sở hữu tư nhân, giải quyết bài toán khủng hoảng kinh tế vĩ mô, vấn đề chất lượng của các thể chế hỗ trợ thị trường.

Bài học kinh nghiệm về cải cách doanh nghiệp nhà nước tại Hàn Quốc được rút ra là: (i) Phải giảm thiểu sự can thiệp chính trị, đặc biệt là trong các quyết định về giá cả và nhân sự; (ii) Xác định các mục tiêu của doanh nghiệp thông qua các chỉ số kết quả hoạt động; (iii) Tăng quyền tự chủ quản lý để đạt được các mục tiêu này; (iv) Đánh giá hiệu quả quản lý; (v) Chế độ lương thưởng phải gắn với kết quả hoạt động. Việc hạn chế đến mức tối thiểu sự ảnh hưởng của Nhà nước tới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước thông qua việc cổ phần hóa tài sản doanh nghiệp cho tư nhân sẽ làm thay đổi toàn bộ cơ cấu tổ chức và hệ tư tưởng của cả doanh nghiệp.

3.3. Kinh nghiệm của Singapore[7]

Về cơ cấu tổ chức, theo quy định của Đạo luật Công ty Singapore, doanh nghiệp nhà nước tại Singapore có thể tồn tại dưới 2 hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên trong đó Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất nắm 100% vốn điều lệ hoặc công ty cổ phần trong đó Nhà nước sở hữu từ 51% vốn điều lệ trở lên. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên với 100% vốn điều lệ của Nhà nước, chủ sở hữu Nhà nước là cơ quan quyền lực cao nhất. Đại diện sở hữu nhà nước là Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước. Đối với công ty cổ phần mà Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, thì các cổ đông gộp với nhau tạo thành Đại hội đồng cổ đông (ít nhất 3 cổ đông). Đại hội đồng cổ đông tiến hành bầu ra Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị tiến hành bầu ra Ban giám đốc/Tổng giám đốc và các phòng ban.

Về quản trị tài chính, các doanh nghiệp nhà nước phải báo cáo các thông tin tài chính và phi tài chính quan trọng về doanh nghiệp phù hợp với các tiêu chuẩn chất lượng cao được quốc tế công nhận trong công ty, bao gồm cả các lĩnh vực đang được chú trọng cho Nhà nước như là một chủ sở hữu và công chúng. Điều này bao gồm trong các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện vì lợi ích công cộng. Các báo cáo tài chính hàng năm của các doanh nghiệp nhà nước phải được kiểm toán độc lập dựa trên các tiêu chuẩn chất lượng cao và các thủ tục kiểm soát cụ thể của Nhà nước không thay thế cho một cuộc kiểm toán độc lập.

Tóm lại, đổi mới quản trị để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là một vấn đề có tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa lý luận lâu dài đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập hiện nay. Từ bài học đổi mới của các quốc gia phát triển trên thế giới, doanh nghiệp nhà nước Việt Nam vừa phải nâng cao, giữ vững được vai trò chủ đạo của mình vừa tạo ra động lực để thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, góp phần tạo nên sự tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đề ra.

Lê Quốc Khanh





[1]. Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005.

[2]. Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[3]. Boundless, 2013, Government Cooperations. https://www.boundless.com/political-science/bureaucracy/the-organization-ofbureaucracy/government-corporations/.

[4]. Báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2017.

[5]. Dương Hoàng Oanh, 2002, Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay, Viện Kinh tế Thế giới, Hà Nội.

[6]. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2002), Cải cách doanh nghiệp nhà nước - Tình hình ở Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới, Hà Nội.

[7]. Christopher Chen (2016), Solving the Puzzle of Corporate Governance of State-Owned Enterprises: The Path of the Temasek Model in Singapore and Lessons for China, Northwestern Journal of International Law & Business.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm