Thứ bảy 21/06/2025 11:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quản trị nội bộ công ty luật hợp danh – Góc nhìn từ thực tiễn

Tóm tắt: Một mô hình quản trị công ty luật hợp danh tốt cần được tạo bởi những thành tố tác động, được thiết kế trên cơ sở hệ thống các cơ quan và sự giám sát nhằm hướng tới mục tiêu phát triển của công ty cũng như của các thành viên công ty. Bởi công ty luật hợp danh không chỉ đơn thuần là một loại hình công ty thương mại thuần túy, mà nó còn cung cấp các sản phẩm dịch vụ đặc biệt cho người tiêu dùng và xã hội. Tuy nhiên, thực tế vấn đề quản trị công ty luật hợp danh vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về quản trị công ty luật hợp danh là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.


Abstract: Model of good administration of legal partnership should be established by impacting factors, designed on the basis of the system of these organizations and the supervision directed towards the development of the company as well as company members. Because legal partnership is not merely a form of pure commercial company, it also provides special service products for consumers and the society. In the practice, however, administration of legal partnership still shows given limitations. Therefore, further study of the administration of legal partnership is an urgent need in the present.

1. Nhận diện về quản trị công ty luật hợp danh

Quản trị nội bộ công ty luật hợp danh được nhận diện bởi các dấu hiệu chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, chủ thể quản trị là các luật sư. Chỉ những người là luật sư mới được tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư. Người muốn trở thành luật sư phải là những người có bằng cử nhân luật, đáp ứng các điều kiện về sức khỏe, năng lực, phẩm chất theo quy định của pháp luật. Họ cần phải trải qua thời gian đào tạo nghiệp vụ luật sư với thời gian 12 tháng[1]. Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật sư được cơ sở đào tạo nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư[2]. Các chủ thể này chính là các tác nhân tạo ra tác động quản trị. Đối tượng bị quản trị phải tiếp nhận sự tác động từ các chủ thể là luật sư trong công ty luật. Tác động có thể chỉ một lần và cũng có thể nhiều lần, ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động của công ty luật. Bản chất của quản trị công ty luật hợp danh thể hiện ở chính mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể và đối tượng. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể (các luật sư) tạo ra các tác động. Sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị được thực hiện trong một môi trường luôn luôn biến động.

Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Thành viên phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty; trung thành với lợi ích của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác...

Thứ hai, cơ cấu tổ chức, điều hành của công ty. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai thành viên (các luật sư) đồng thuận thành lập[3]. Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này[4]. Công ty luật hợp danh đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Giám đốc công ty luật là thành viên. Cơ cấu tổ chức, điều hành của công ty luật hợp danh bao gồm Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc[5]. Cơ cấu tổ chức, quản lý công ty luật hợp danh chịu sự tác động của thành tố chính trong hoạt động quản trị, đó là Hội đồng thành viên và người quản lý công ty. Trong hoạt động quản trị công ty luật hợp danh thì yếu tố bình đẳng giữa các thành viên (luật sư) được coi trọng và là nền tảng của quản trị công ty. Sự bình đẳng này được coi là một đặc trưng rất rõ ràng của công ty hợp danh được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau như: Bình đẳng trong quản lý, điều hành; bình đẳng trong phân chia quyền lực hay chịu rủi ro có thể không phân biệt và phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp vào công ty. Công ty luật hợp danh được hoạt động theo những nguyên tắc chung quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014. Bên cạnh đó, với tư cách là một tổ chức hành nghề luật sư, do đó, công ty luật hợp danh được tổ chức, quản lý và hoạt động theo những quy chế riêng.

Cơ cấu tổ chức, điều hành công ty luật hợp danh bao gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc). Đối với cơ cấu tổ chức, quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bao gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc (Tổng giám đốc), Ban kiểm soát/Kiểm soát viên. Trong đó, Hội đồng thành viên do tất cả thành viên (luật sư) hợp lại thành Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất6. Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả hoạt động kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ công ty không quy định thì các vấn đề như: Phương hướng phát triển công ty; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; tiếp nhận thêm thành viên hợp danh mới... phải được ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp danh chấp thuận[7].

Giám đốc công ty (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Các luật sư thỏa thuận cử một thành viên làm Giám đốc công ty. Người giữ các chức vụ quản lý sẽ được hưởng thù lao từ việc thực hiện chức năng quản lý. Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện quyền trong kiểm soát công ty, kiểm soát các giao dịch, đặc biệt là các giao dịch lớn có nguy cơ phát sinh tư lợi thì mỗi thành viên công ty hợp danh đều có quyền góp ý và kiểm soát việc quản lý công ty. Về điểm này, khác với Văn phòng luật sư. Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập do đó việc tổ chức, quản lý văn phòng do Trưởng văn phòng quyết định (Văn phòng luật sư hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân). Đối với công ty luật trách nhiệm hai thành viên trở lên, việc quản trị sẽ phức tạp hơn vì những lý do chủ yếu sau: (i) Tính đồng thuận, thống nhất ý chí bị hạn chế do công ty có sự tham gia của nhiều người (các luật sư); (ii) Với tư cách là thành viên của công ty, các luật sư đều có quyền cơ bản liên quan tới tổ chức, quản lý công ty như: Được tiếp cận các thông tin về tình hình tài chính, được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính... Đối với Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một luật sư làm chủ sở hữu có Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Luật sư làm chủ sở hữu công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Giám đốc công ty[8].



Bên cạnh đó, cơ chế đại diện của công ty luật cũng được thực hiện qua tư cách của các luật sư. Các luật sư đều có quyền và trở thành người đại diện cho công ty trước pháp luật. Các thành viên phân công đảm nhiệm các chức danh quản lý, điều hành công ty tùy thuộc vào khả năng của từng người. Các quyết định của công ty phải được tất cả các luật sư thành viên nhất trí, mỗi người đều có quyền phủ quyết. Mỗi thành viên đều có quyền đại diện cho công ty. Họ có thể lựa chọn ra người quản lý công ty.

Thứ ba, cơ chế phân chia quyền lực. Sự phân chia quyền lực trong tổ chức, điều hành công ty luật hợp danh xuất phát từ bản chất mang tính đối nhân của công ty. Quyền lực trong hệ thống công ty được xác lập trên cơ sở tư cách pháp lý của thành viên, tỷ lệ vốn góp hay tuân thủ sự thỏa thuận, thống nhất giữa các luật sư thành viên hợp danh. Trong công ty luật hợp danh, các luật sư thành viên hợp danh không chỉ tham gia với tư cách là thành viên hợp danh - chủ sở hữu công ty mà bản thân họ còn mang tư cách là các luật sư sẽ bình đẳng với nhau trong quá trình hành nghề luật sư. Các luật sư trong công ty luật có thể thống nhất phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Điều đó thể hiện tính liên kết và chia sẻ rủi ro trong công ty được xác lập và đảm bảo không phải duy nhất vào tỷ lệ vốn góp mà gắn kết trên cơ sở niềm tin, danh dự và phẩm giá của luật sư. Nói cách khác, các luật sư cùng trên một thuyền, vì vậy có lẽ đây là yếu tố gắn kết mang tính bền vững trong công ty luật. Đây là điểm khác biệt với việc phân chia quyền lực trong Văn pòng luật sư hay công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Đối với văn phòng luật sư thì Trưởng Văn phòng là người đại diện và là người chịu trách nhiệm về mọi họat động của Văn phòng luật sư. Trong công ty luật trách nhiệm hữu hạn cơ chế phân chia quyền lực có thể được xác lập theo một số tiêu chí: (i) Loại hình doanh nghiệp một chủ sở hữu hay nhiều chủ sở hữu; (ii) Tỷ lệ vốn góp của thành viên vào công ty.

Thứ tư, nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong quá trình quản trị. Nguồn lực đảm bảo công ty luật vận hành hiệu quả bao gồm nhiều vấn đề khác nhau, trong đó đặc biệt là các nguồn lực từ các luật sư - thành viên hợp danh công ty. Sự tham gia của luật sư trong các vụ việc, vụ án góp phần tạo nên nguồn tài sản đảm bảo cho công ty tồn tại và phát triển bền vững. Trong những năm gần đây, đội ngũ luật sư đã đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu, tỷ lệ các vụ án hình sự có sự tham gia của luật sư do công dân mời ngày càng tăng. Việc bào chữa cho bị can, bị cáo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng được các luật sư tích cực tham gia, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Bên cạnh đó, nguồn lực được hình thành từ tài sản vô hình như uy tín, kinh nghiệm hay năng lực làm việc của luật sư là những giá trị tài sản quan trọng đảm bảo hiệu quả hoạt động của công ty. Tuy nhiên, hiện nay dưới góc độ luật thực định việc xác định hay quy định về loại tài sản và quyền sở hữu loại tài sản này của công ty cũng chưa thực sự minh bạch.

2. Hạn chế, bất cập trong quản trị công ty luật hợp danh

Quản trị công ty luật hợp danh đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên thực tế cũng chứng minh rằng: Quản trị công ty luật hợp danh vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Cụ thể:

Một là, cơ chế “bình quyền” giữa các luật sư thành viên công ty luật hợp danh. Cơ chế này cho phép bảo đảm mọi luật sư là thành viên đều có quyền tham gia việc tổ chức, quản lý và kiểm soát công ty. Mặt tích cực là phát huy được những lợi thế hay thế mạnh của tất cả các luật sư thành viên công ty, đặc biệt là các luật sư có trình độ chuyên sâu và kinh nghiệm trong các lĩnh vực đặc thù. Tuy nhiên, khi mà các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện cho công ty thì việc “phân quyền” trong tổ chức, quản lý công ty sẽ gặp khó khăn khi mà “chiếc bánh lợi ích” được chia không rõ ràng. Vì vậy, nếu không có sự minh bạch trong quy định thẩm quyền giữa những người đại diện thì có thể dẫn đến những hành động lạm quyền gây tổn hại cho công ty, thành viên và khách hàng. Thậm chí có minh bạch nhưng nếu có hành vi vi phạm thì chế tài cũng chủ yếu là do các thành viên xem xét quyết định. Do đó, giữa “lý và tình” trong góc độ này cũng bị ảnh hưởng hoặc lạm dụng. Thực tế cho thấy, có những luật sư không trực tiếp tham gia điều hành công ty nhưng khi thực hiện, khi ký kết các hợp đồng thì họ nhân danh công ty. Chính vì vậy, cần phải có cơ chế để dự phòng những tổn thất gây ra cho người thứ ba trong trường hợp giao kết hợp đồng với luật sư thành viên mà trong thời gian đó họ không nắm giữ chức năng quản lý và kiểm soát. Đặc biệt là đối với việc lạm quyền khi giao dịch ký kết các hợp đồng với khách hàng có thể mang lại bất lợi cho thành viên khác, cho công ty nhưng lại có lợi cho luật sư trực tiếp ký kết hợp đồng. Trong trường hợp đó, cần xem xét trách nhiệm của các luật sư này như thế nào? Mức độ áp dụng đến đâu?...

Hai là, về yêu cầu được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của công ty luật. Thành viên hợp danh trong công ty có quyền yêu cầu công ty, thành viên hợp danh khác cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của công ty; kiểm tra tài sản, sổ kế toán và các tài liệu khác của công ty khi xét thấy cần thiết[9]. Việc minh bạch hóa thông tin trong quản trị công ty là một việc làm cần thiết trong việc bảo vệ lợi ích của công ty và thành viên công ty. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh đến trường hợp có thể lạm dụng việc yêu cầu cung cấp thông tin để trục lợi và/hoặc làm tổn hại đến bí mật kinh doanh của công ty, gây phương hại tới công ty và thành viên. Vì vậy, việc xác định yêu cầu được cung cấp các thông tin là quyền của thành viên hợp danh nhưng cũng cần chỉ rõ trường hợp nào là trường hợp được coi là “cần thiết”. Đồng thời quyền yêu cầu của thành viên nhưng xuất phát từ bản chất pháp lý của công ty luật hợp danh thì việc yêu cầu đó cần phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên còn lại. Thiết nghĩ điều đó vừa bảo đảm quyền của thành viên, vừa thực hiện được cơ chế tổ chức, quản lý của công ty .

Ba là, về vấn đề thừa kế trong công ty. Theo quy định của pháp luật[10], trường hợp thành viên hợp danh chết thì người thừa kế của thành viên được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Người thừa kế có thể trở thành thành viên hợp danh nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận. Như vậy, nếu công ty có hai thành viên, trong đó một thành viên bị chết, mất tích thì thành viên còn lại là người đại diện cho công ty trước pháp luật. Người thừa kế của luật sư - thành viên bị chết sẽ được hưởng phần giá trị còn lại theo quy định còn việc họ có trở thành thành viên hợp danh hay không thì lại phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng thành thành viên. Tuy nhiên, Hội đồng thành viên lúc này chỉ còn một người và có thể thành viên đó không chấp thuận thì người thừa kế không thể trở thành thành viên hợp danh công ty. Thực chất công ty lúc này phụ thuộc vào quyết định của một người. Bên cạnh đó, muốn trở thành thành viên công ty luật hợp danh thì người đó phải là luật sư, tuy nhiên, trong trường hợp người hưởng di sản thừa kế không phải là luật sư thì giải quyết thế nào? Đây được xem là “lỗ hổng” trong quy định về điều kiện trở thành thành viên trong công ty luật hợp danh. Đồng thời, công ty không bảo đảm số thành viên tối thiểu thì phải liên tục ít nhất 06 tháng, công ty mới bị giải thể. Như vậy, việc quản lý điều hành công ty hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của luật sư còn lại. Nếu vị luật sư đó năng lực tổ chức, quản lý yếu hoặc đưa ra các quyết định không phù hợp có thể gây tổn hại đến lợi ích của công ty hoặc những quyết định có tính chất tư lợi cho cá nhân sẽ tác động đến hoạt động của công ty và quyền, lợi ích hợp pháp của những người khác hoặc người tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của thành viên có nguy cơ bị xâm hại. Phải chăng đây cũng là một “nguồn nguy hiểm” dẫn đến việc thâu tóm công ty?

Bốn là, về tư cách thành viên bị tuyên bố mất tích. Tư cách thành viên hợp danh chấm dứt khi thành viên đó đã chết, bị Tòa án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự[11]. Trong trường hợp một luật sư của công ty sau khi bị Tòa án tuyên bố là mất tích nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm luật sư bị tuyên bố mất tích thì đột nhiên lại trở về và yêu cầu giải quyết việc liên quan đến quyền, lợi ích của anh ta tại công ty. Về trách nhiệm, trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày chấm dứt tư cách thành viên hợp danh thì người đó vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên[12]. Theo quy định thì vị luật sư đó không còn là thành thành viên công ty, vậy việc luật sư khi trở về vẫn là một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và cũng mong muốn tiếp tục là thành viên công ty thì hướng giải quyết sẽ như thế nào? Trong đó liên quan đến các mối quan hệ giữa công ty với luật sư bị tuyên bố là mất tích; giữa người đó với người hưởng phần quyền, nghĩa vụ của luật sư bị tuyên bố là mất tích sẽ giải quyết ra sao? Như vậy, đây là một rủi ro có thể xảy ra trong quá trình vận hành quản trị công ty.

Có thể nói, cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan và tổ chức bổ trợ tư pháp nói riêng, trong đó, đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư là vấn đề trung tâm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Thực tế cho thấy, tổ chức và hoạt động luật sư trong thời gian qua không những đã đáp ứng kịp thời một phần nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, mà còn góp phần từng bước tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, trên thực tế, sự phát triển của đội ngũ luật sư vẫn chưa phúc đáp được toàn diện các yêu cầu của xã hội và đất nước đang đặt ra. Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển này là do công tác quản trị công ty luật còn nhiều bất cập, chưa được quan tâm đúng mức, thực hiện chủ yếu theo kinh nghiệm, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách cơ bản về lý luận và chậm tổng kết thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu và xây dựng một nền quản trị công ty luật hợp danh minh bạch, hiệu quả là một yêu cầu cấp thiết ở Việt Nam hiện nay.

TS. Nguyễn Quý Trọng, Đại học Luật Hà Nội

& Luật sư Nguyễn Minh Đức, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh



Tài liệu tham khảo:

[1]. Theo quy định của Luật Luật sư năm 2012 thì việc đào tạo tại Liên đoàn Luật sư Việt Nam.

[2]. Điều 12 Luật Luật sư năm 2012 (sửa đổi).

[3]. Điều 34 Luật Luật sư năm 2006.

[4]. Điều 32 Luật Luật sư sửa đổi năm 2012.

[5]. Điều 14 Bản điều lệ công ty VILAF năm 2007.

[6]. Điều 15 Bản điều lệ công ty VILAF năm 2007.

[7]. Khoản 3 Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[8]. Điều 34 Luật Luật sư năm 2006.

[9]. Khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[10]. Khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[11]. Khoản 1 Điều 180 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[12]. Khoản 5 Điều 180 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm