Chủ nhật 15/06/2025 18:06
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quảng cáo thương mại trên mạng xã hội - Khoảng trống pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Theo Luật Quảng cáo năm 2012 thì “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến công chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ không có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thông tin cá nhân” (khoản 1 Điều 2). Có thể hiểu hoạt động quảng cáo có thể được nhà sản xuất, nhà kinh doanh, tổ chức, cá nhân sử dụng để quảng bá về hàng hóa, dịch vụ của họ hoặc giới thiệu về chính bản thân họ đến người tiếp nhận quảng cáo nhằm mục đích lợi nhuận hoặc quảng cáo được sử dụng chỉ nhằm mục đích thông tin đơn thuần không mang yếu tố lợi nhuận.

1. Chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo thương mại trên mạng xã hội

1.1. Người quảng cáo

Điều 102 Luật Thương mại năm 2005 quy định “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình”. Như vậy, quảng cáo có thể được thực hiện bởi các tổ chức, cá nhân khác nhau nhưng quảng cáo phải do thương nhân thực hiện mới được gọi là quảng cáo thương mại và chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005.

“Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có yêu cầu quảng cáo sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc bản thân tổ chức cá nhân đó”[1]. Dựa vào những phân tích trên thì người quảng cáo trong hoạt động quảng cáo thương mại trên mạng xã hội là thương nhân như các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ hộ kinh doanh sử dụng mạng xã hội như facebook, youtube… để giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ của họ hoặc giới thiệu về chính bản thân họ với người tiêu dùng nhằm thu hút sự quan tâm và nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng.

Để thông tin về hàng hóa, dịch vụ của mình được đăng trên mạng xã hội nhằm mục đích quảng cáo thì người quảng cáo (không phải chủ trang mạng xã hội) sẽ phải xác lập hợp đồng phát hành quảng cáo với chủ trang mạng xã hội đó vì Luật Quảng cáo năm 2012 đã quy định “Việc hợp tác giữa các chủ thể trong hoạt động quảng cáo phải thông qua hợp đồng dịch vụ quảng cáo theo quy định của pháp luật”[2].

Tuy nhiên, vì mạng xã hội có tính năng mở nên nhiều cá nhân có tài khoản người dùng trên mạng xã hội điển hình như facebook đã sử dụng tính kết nối xuyên biên giới của trang này để kinh doanh online. Họ dễ dàng đưa thông tin hình ảnh về hàng hóa, dịch vụ mà họ kinh doanh lên tài khoản cá nhân để giới thiệu đến người dùng khác thậm chí là livestream giới thiệu trực tuyến và từ đó tiến hành luôn việc mua bán, cung ứng dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Thực tế hiện nay không chỉ những sản phẩm thông thường như quần áo, phụ kiện làm đẹp, thực phẩm… được giới thiệu rao bán phổ biến trên tài khoản cá nhân của người dùng facebook mà những hàng hóa đặc biệt như mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh… (xuất xứ trong nước, xuất xứ nước ngoài) cũng được giới thiệu rao bán môt cách dễ dàng mà không qua bất cứ thủ tục gì trước đó. Trong khi đó, theo quy định của Luật Quảng cáo năm 2012 và Nghị định số 181/2013/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo được ban hành ngày 14/11/2013 (Nghị định số 181/2013/NĐ-CP) những sản phẩm đặc biệt như thuốc, mỹ phẩm khi quảng cáo phải thỏa mãn một số điều kiện cụ thể[3]. Vấn đề đặt ra là hành vi giới thiệu thông tin, hình ảnh của hàng hóa để kinh doanh online đã nêu có được xem là hành vi quảng cáo thương mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quảng cáo không?

Vì nội hàm quảng cáo trong luật quảng cáo chỉ ghi nhận mục đích của việc quảng cáo là “giới thiệu” về hàng hóa chứ không bao hàm hành vi “bán” hàng hóa nên hành vi bán hàng online có giới thiệu về hàng hóa vẫn không bị Luật Quảng cáo điều chỉnh. Ngược lại, nếu việc giới thiệu về hàng hóa dịch vụ được thực hiện trên phương tiện khác như: Báo chí, trang thông tin điện tử… thì phải tuân thủ thủ tục nghiêm ngặt. Nếu xét về mặt bản chất thì hành vi cung cấp thông tin về hình ảnh, chất lượng, công dụng, giá của hàng hóa lên môi trường mạng công khai mà nhiều người dùng khác dễ dàng thấy được, đọc được cũng chính là hình thức quảng cáo. Thiết nghĩ trong hoạt động kinh doanh online qua mạng xã hội có hành vi giới thiệu về sản phẩm nhằm thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng, kích cầu mua sắm thì ngoài việc điều chỉnh bằng pháp luật về hợp đồng mua bán cũng cần được điều chỉnh bởi pháp luật quảng cáo.

1.2. Người truyền tải thông điệp về hàng hóa, dịch vụ

Hiện nay, bên cạnh quảng cáo dưới dạng các bài viết, video mô phỏng giới thiệu sản phẩm, hàng hóa dịch vụ thì người quảng cáo, người phát hành quảng cáo còn hướng đến một hình thức quảng cáo mới mẻ đó là quảng cáo thông qua phát ngôn của người nổi tiếng. Người phát ngôn này có thể đã là “Đại sứ thương hiệu” của người quảng cáo hoặc là các chủ thể chỉ ký kết hợp đồng để tham gia quảng cáo cho hàng hóa, dịch vụ của người quảng cáo. Hình thức quảng cáo này được thấy rõ qua các video hay các livestream, các bài đăng trên tài khoản mạng xã hội của người nổi tiếng để giới thiệu, quảng bá sản phẩm mà họ nói là bản thân đã và đang sử dụng. Thông qua các hợp đồng dịch vụ quảng cáo, người quảng cáo sẽ yêu cầu người nổi tiếng nói về những trải nghiệm của họ khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ, của người quảng cáo để tăng sự chú ý của khách hàng. Việc các ngôi sao nổi tiếng truyền tải thông điệp liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ cũng sẽ tạo được niềm tin rất lớn với người tiêu dùng. Lúc này hình ảnh, tiếng nói của các gương mặt đại diện về hàng hóa, dịch vụ cũng như trách nhiệm về những thông điệp mà họ truyền tải về hàng hóa dịch vụ cần được điều chỉnh bởi pháp luật chứ không thể xem như những phát ngôn thông thường.

Những quy định về địa vị pháp lý của người phát ngôn về hàng hóa dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận trong hoạt động quảng cáo thương mại chưa được ghi nhận. Nếu pháp luật không quy định thì quyền và nghĩa vụ của chủ thể này ra sao? khi thiết lập hợp đồng quảng cáo thì người truyền tải thông điệp về chất lượng hàng hóa dịch vụ có trách nhiệm kiểm tra chất lượng, nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa hay không? tin tưởng vào chất lượng của sản phẩm do người truyền tải thông điệp đã trải nghiệm người tiêu dùng mua hàng hóa, sử dụng và xảy ra những thiệt hại nhất định thì người truyền tải thông điệp có chịu trách nhiệm hay không? Đó vẫn là những câu hỏi còn bỏ ngỏ của pháp luật quảng cáo Việt Nam đối với chủ thể có phát ngôn thương mại này trong hoạt động quảng cáo thương mại.

2. Hành vi đặt sản phẩm quảng cáo trên vị trí có nội dung vi phạm pháp luật

Trong thời gian gần đây đã có những trường hợp các sản phẩm quảng cáo thương mại hợp pháp của người quảng cáo thương mại Việt Nam như: Samsung Vina, Huawei Việt Nam, FPT Shop, VNG, Shopee trên Youtube bị chèn vào các video, clip có nội dung xấu, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, những nội dung thiếu thẩm mỹ, trái truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của Việt Nam, thậm chí là xâm phạm đến an ninh quốc phòng, làm ảnh hưởng đến uy tín của người quảng cáo thương mại và an ninh quốc gia[4].

Nếu căn cứ vào các quy định của pháp luật quảng cáo thì hành vi này không nằm trong các hành vi cấm quảng cáo và hiện tại cũng chưa có quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới trong kiểm duyệt vị trí đặt sản phẩm quảng cáo, trong khi đây lại là chủ thể quyết định việc đăng phát hay gỡ bỏ sản phẩm quảng cáo. Đó là lý do vì sao khi các sản phẩm quảng cáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm duyệt về nội dung bị Youtube hiển thị, đặt vào vị trí có nội dung xấu độc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể yêu cầu Youtube gỡ bỏ các video có nội dung độc xấu theo quy định của pháp luật về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng mà không thể xử phạt vi phạm hành chính Youtube với hành vi đặt sản phẩm quảng cáo vào nội dung vi phạm pháp luật.

3. Quản lý nhà nước và xử lý vi phạm hành chính đối với tổ chức cá nhân nước ngoài là chủ trang mạng xã hội kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam

Luật Quảng cáo năm 2012 và Nghị định số 181/2013/NĐ-CP có điều chỉnh về hoạt động quảng cáo trên trang thông tin điện tử của tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu tại Việt Nam[5].

Về phần xử lý vi phạm hành chính cũng chỉ quy định tại khoản 1 Điều 55 Nghị định số 158/2013/NĐ-CP[6] xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm những nghĩa vụ được nêu tại Điều 13 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP.

Tuy nhiên, những quy định này chỉ mới điều chỉnh đối với quảng cáo thương mại trên trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân nước ngoài chứ không bao hàm quảng cáo thương mại trên mạng xã hội của tổ chức cá nhân nước ngoài. Rõ ràng hiện nay người quảng cáo khi muốn được phát hành quảng cáo trên facebook họ chỉ cần trực tiếp xác lập giao dịch phát quảng cáo cũng như trả phí cho facebook theo hướng dẫn của facebook mà không cần phải qua bất kỳ một đại diện nào của facebook tại Việt Nam. Việc xử lý vi phạm về quảng cáo tại Việt Nam trong trường hợp các trang mạng xã hội có máy chủ đặt ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ đó, việc nhanh chóng đặt hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội của chủ thể nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam dưới sự quản lý của Nhà nước Việt Nam là việc làm cần thiết.

Thêm vào đó, các quy định xử phạt hành chính về hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội có máy chủ tại nước ngoài cũng cần được bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hiện nay, đảm bảo hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội nước ngoài cung cấp thông tin cho người sử dụng tại Việt Nam tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam, bảo vệ được quyền lợi của người quảng cáo, người tiếp nhận quảng cáo tại Việt Nam

4. Kiến nghị

4.1. Hoàn thiện quy định về chủ thể tham gia hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội

Thứ nhất, đưa bán hàng online trên mạng xã hội là một nội dung chịu sự điều chỉnh của pháp luật quảng cáo. Bán hàng online thông qua tài khoản cá nhân trên mạng xã hội cũng chứa đựng hành vi giới thiệu hình ảnh, cung cấp thông tin về chất lượng, công dụng, giá cả của hàng hóa thì đó cũng là hành vi quảng cáo. Nhưng hiện nay việc giới thiệu thông tin này đang được các chủ tài khoản mạng xã hội thực hiên tự do, tự phát không thực hiện đúng quy định của pháp luật quảng cáo mà không có cơ sở xử lý vi phạm.

Thứ hai, cần đưa chủ thể truyền tải thông điệp về sản phẩm, dịch vụ được quảng cáo vào nhóm chủ thể phải được điều chỉnh bởi pháp luật quảng cáo khi việc họ nói rằng bản thân đã và đang trải nghiệm sản phẩm để minh chứng cho chất lượng, công dụng của hàng hóa dịch vụ được quảng cáo là những phát ngôn mang tính thương mại. Họ nhận được thù lao từ hợp đồng dịch vụ quảng cáo với người quảng cáo để đưa ra những phát ngôn có sức lôi kéo việc mua sắm hàng hóa và sử dụng dịch vụ của người tiêu dùng thì họ có nghĩa vụ cung cấp thông tin đúng sự thật và họ phải có trách nhiệm khi đưa ra những thông tin gian dối, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.

4.2. Cần sửa đổi bổ sung hành vi đặt sản phẩm quảng cáo vào vị trí vi phạm pháp luật vào nhóm các hành vi quảng cáo bị cấm.

Ngoài các hành vi cấm quảng cáo nói chung theo Luật Quảng cáo thì hành vi cấm liên quan đến quảng cáo trên mạng xã hội hiện nay đươc ghi nhận trong Luật An ninh mạng 2018 “cấm quảng cáo hàng hóa dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật”[7] và xử phạt hành chính đối với hành vi “chủ động quảng cáo tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ bị cấm”[8]. Hành vi đặt sản phẩm quảng cáo vào các vị trí có nội dung vi phạm pháp luật trên phương tiện mạng xã hội đang diễn ra phổ biến nhưng chưa được điều chỉnh. Tác giả cho rằng, hành vi này cần được đưa vào nhóm các hành vi cấm trong pháp luật về quảng cáo vì mạng xã hội cũng được xem là một phương tiện quảng cáo và chịu sự điều chỉnh của Luật Quảng cáo.

4.3 Bổ sung quy định quản lý nhà nước và xử phạt đối với tổ chức cá nhân nước ngoài là chủ trang mạng xã hội kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam

Về quản lý nhà nước, quy định về quảng cáo trên trang thông tin điện tử của cá nhân, tổ chức nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu tại Việt Nam tại Chương 3 Điều 13 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP không bao hàm phương tiện mạng xã hội nên dự thảo sửa đổi lần 1 Nghị định này đã thay đổi tên chương theo hướng bao quát hơn “Hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới tại Việt Nam”. Khoản 1 Điều 13 dự thảo cũng thể hiện rõ các phương tiện được điều chỉnh trong đó có mạng xã hội “tổ chức cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới trên môi trường mạng có phát sinh doanh thu tại Việt Nam thông qua trang thông tin điện tử, mạng xã hội…”.

Tuy nhiên, dự thảo nghị định đã không còn bắt buộc các tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới ký kết hợp đồng với thương nhân làm đại diện tại Việt Nam, cũng như không buộc người quảng cáo tại Việt Nam ký kết hợp đồng phát hành quảng cáo với bên đại diện của bên nước ngoài cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới. Thay vào đó có hai chủ thể mới được xuất hiện trong dự thảo là “Người phát hành quảng cáo tại Việt Nam”[9] và “đầu mối tại Việt Nam”[10] của tổ chức cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới”. Trong quan hệ quảng cáo thương mại trên mạng xã hội thì người phát hành quảng cáo là chủ trang mạng xã hội đó, vậy “Người phát hành quảng cáo tại Việt Nam” được hiểu là người đại diện cho chủ trang mạng xã hội nước ngoài tại Việt Nam. Nhưng Dự thảo lại không bắt buộc chủ trang mạng xã hội nước ngoài ký hợp đồng với thương nhân đại diện tại Việt Nam, vậy địa vị pháp lý của người phát hành quảng cáo tại Việt Nam được xác lập như thế nào? Và có thể hiểu “người phát hành quảng cáo tại Việt Nam” được đề cập ở Điều 13 chính là “đầu mối liên hệ” của chủ trang mạng xã hội nước ngoài ở Điều 14? Theo quan điểm của tác giả việc ràng buộc chủ trang mạng xã hội nước ngoài phải ký kết hợp đồng với thương nhân đại diện tại Việt Nam là cần thiết và người này sẽ được hiểu là Người phát hành quảng cáo tại Việt Nam. Lúc này sẽ bổ sung thêm quy định ràng buộc trách nhiệm của người phát hành quảng cáo tại Việt Nam đối với việc gỡ bỏ các sản phẩm quảng cáo vi phạm hoặc các clip độc hại mà sản phẩm quảng cáo được gắn vào đó. Vì hiện nay, các đại diện tại Việt Nam của chủ trang mạng xã hội như youtube nói rằng họ không có trách nhiệm đối với các sản phẩm quảng cáo gắn vào vị trí vi phạm pháp luật, mà các thao tác kỹ thuật đối với sản phẩm quảng cáo chủ trang ở nước ngoài mới có thẩm quyền, làm cho việc xử lý các quảng cáo vi phạm rất chậm và kém hiệu quả. Địa vị pháp lý của người phát hành quảng cáo tại Việt Nam được xác lập thông qua hợp đồng giữa họ và chủ trang mạng xã hội nước ngoài và đó cũng là cơ sở ghi nhận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên đối với sản phẩm quảng cáo giúp cho trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quan hệ quảng cáo trên mạng xã hội được xác định rõ ràng khi có hành vi vi phạm pháp luật.

Dự thảo nghị định cũng cần làm rõ về chủ thể là “đầu mối liên hệ” được dự thảo để cập ở Điều 14. Chủ thể này có phải là người phát hành quảng cáo tại Việt Nam? Nếu không phải thì chủ thể này có quan hệ như thế nào với tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới? Địa vị pháp lý cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ thể này ra sao? Những quy định cụ thể về chủ thể này sẽ giúp cho việc xác định chính xác chủ thể có liên quan từ đó nhanh chóng giải quyết các vi phạm phát sinh trong hoạt động quảng cáo trên mạng xã hội khi mà máy chủ lại đặt ở nước ngoài.

Về xử lý vi phạm hành chính, cần bổ sung thêm các hành vi vi phạm cũng như mức xử phạt đối với những hành vi vi phạm của chủ trang mạng xã hội nước ngoài và người phát hành quảng cáo tại Việt Nam. Chẳng hạn như: (1) hành vi đặt sản phẩm quảng cáo vào vị trí vi phạm pháp luật; (2) hành vi không bảo đảm người phát hành quảng cáo ở Việt Nam có khả năng kiểm soát, phát hiện và loại bỏ các sản phẩm quảng cáo xuyên biên giới vi phạm quy định pháp luật Việt Nam về quảng cáo; (3) hành vi không loại bỏ các sản phẩm quảng cáo xuyên biên giới vi phạm quy định pháp luật Việt Nam về quảng cáo./.

ThS. Nguyễn Thị Hoa Cúc & Lê Kim Lĩnh
Khoa Luật, Đại học Cần Thơ


[1] Khoản 5 điều 2 Luật Quảng cáo năm 2012.

[2] Điều 6 Luật Quảng cáo năm 2012.

[3] Chương 2 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo được ban hành ngày 14/11/2013.

[4] Hàng loạt doanh nghiệp gỡ quảng cáo trong video độc hại trên youtube,

[5] Khoản 2 điều 13 Nghị định số 181/2013/NĐ-CP.

[6] Được bổ sung bởi khoản 43 Điều 2 Nghị định số 28/2017/NĐ-CP.

[7] Điểm d, khoản 1, Điều 18 Luật An ninh mạng.

[8] Điểm h, khoản 3 Điều 100 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.

[9] Khoản 3 Điều 13 Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 181/2013/NĐ-CP.

[10] Điều 14 Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 181/2013/NĐ-CP.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm