Thứ bảy 07/06/2025 00:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu - Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện

Bài viết đề cập đến thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu và một số vướng mắc, bất cập. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.

1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu và một số vướng mắc, bất cập

Trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng mở rộng hợp tác quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội hơn trong việc giao kết các hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, khi tình hình dịch bệnh Covid-19 đang dần được kiểm soát và khống chế đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ nhằm thúc đẩy, khôi phục lại nền kinh tế. Điều này dẫn đến số lượng các hợp đồng thương mại hiện nay chiếm số lượng khá lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế.

Tuy nhiên, trên thực tế, các hợp đồng thương mại được ký kết giữa doanh nghiệp với đối tác vẫn còn những thiếu sót, dẫn đến tình trạng hợp đồng bị tuyên vô hiệu, phát sinh các tranh chấp, kiện tụng và ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên. Theo tổng kết công tác năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao, trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại mà Tòa án thụ lý (19.256 vụ việc), giải quyết về hợp đồng mua bán hàng hóa có đến 3.460 vụ việc[1]. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cho thấy, vấn đề tranh chấp trong thương mại có xu hướng gia tăng qua các năm, trong đó, năm 2020, các vụ liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa chiếm đến 47%[2]. Các số liệu trên đã phần nào cho thấy thực trạng tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại và số lượng các hợp đồng thương mại bị tuyên vô hiệu khá là đáng kể. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các quy định về hợp đồng thương mại vô hiệu còn bất cập, chưa đầy đủ, các quy định còn chồng chéo nhau ở một số văn bản quy phạm pháp luật. Điều này gây khó khăn cho các bên trong việc tìm hiểu và tiếp cận các quy định của pháp luật nhằm hạn chế tình trạng hợp đồng vô hiệu do sự thiếu hiểu biết pháp luật. Bên cạnh đó, gây ra sự lúng túng, khó khăn cho Tòa án trong thực hiện công tác xét xử khi áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại. Cụ thể:

Một là, Luật Thương mại năm 2005 chưa đưa ra khái niệm, định nghĩa hoàn chỉnh về hợp đồng thương mại vô hiệu. Còn Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ định nghĩa về “hợp đồng vô hiệu”, tuy nhiên khái niệm này lại dẫn chiếu đến các trường hợp giao dịch bị xem là vô hiệu. Trong khi đó, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại mang tính chất chuyên biệt, đặc thù so với hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng. Các quy định về quan hệ hợp đồng dân sự không phù hợp để định nghĩa cho một lĩnh vực phức tạp và đặc thù như lĩnh vực thương mại. Do đó, dẫn đến việc các bên trong quan hệ thương mại hoặc cơ quan nhà nước khi xác định một hợp đồng thương mại còn chưa rõ ràng và chính xác.

Hai là, Luật Thương mại năm 2005 chưa có quy định riêng biệt về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Hiện nay, việc xác định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại sẽ căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015[3]. Việc quy định như vậy phần nào gây khó khăn cho các bên trong việc xác định các điều kiện để hợp đồng thương mại có hiệu lực. Bởi vì, đối với điều kiện về năng lực chủ thể thì Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chủ thể giao kết hợp đồng có thể là cá nhân, tổ chức có hoặc không có tư cách pháp nhân[4]. Còn đối với hợp đồng thương mại, bắt buộc ít nhất một bên trong hợp đồng phải là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Do đó, nếu áp dụng các quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định năng lực chủ thể giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại thì chưa phù hợp.

Ba là, khái niệm “thương nhân” trong Luật Thương mại năm 2005 chưa thực sự hợp lý. Bởi vì, một trong những điều kiện để trở thành thương nhân là đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, đối với những tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại nhưng không đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh ngành, nghề không giống với ngành, nghề trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã giải quyết vấn đề này. Theo đó, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định theo hướng mở rộng hơn, pháp luật chỉ yêu cầu doanh nghiệp thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh khi thay đổi về ngành, nghề kinh doanh so với nội dung giấy đề nghị đăng ký kinh doanh[5]. Tức là, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu theo hướng mở rộng và năng lực pháp luật của doanh nghiệp không còn bị giới hạn bởi quy định về ngành, nghề kinh doanh[6]. Do đó, các doanh nghiệp có quyền tự do đăng ký kinh doanh các ngành, nghề và hợp đồng do doanh nghiệp giao kết nằm ngoài phạm vi ngành nghề đã đăng ký kinh doanh không là căn cứ dẫn đến hợp đồng thương mại vô hiệu[7]. Hơn nữa, hợp đồng thương mại yêu cầu ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng phải là thương nhân. Chính vì vậy, nếu một trong những điều kiện để trở thành thương nhân là có đăng ký kinh doanh thì chưa thực sự phù hợp.

Bốn là, hiện nay, nhiều doanh nghiệp - một bên trong quan hệ hợp đồng thương mại còn tình trạng chưa có sự hiểu biết và nắm rõ pháp luật. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ở Việt Nam hiện nay, các hợp đồng thương mại được giao kết ngày càng tăng nhanh và mang lại lợi nhuận khổng lồ có các doanh nghiệp, tuy nhiên, song song với đó, nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cao. Nếu không nắm vững các điều kiện giao kết hợp đồng thì rất dễ dẫn đến các tranh chấp, kiện tụng gây thiệt hại cho các doanh nghiệp, nghiêm trọng hơn là dẫn đến doanh nghiệp bị phá sản. Do đó, đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải có sự am hiểu các quy định của pháp luật để có thể tự tin, vững vàng trong khi xác lập các hợp đồng thương mại. Thực tế hiện nay cho thấy, một số doanh nghiệp Việt Nam khi việc đối với các đối tác nước ngoài còn khá chủ quan, thiếu kinh nghiệm trong quá trình ký kết hợp đồng, cũng như không nắm vững điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại dẫn đến nhiều rủi ro có thể xảy ra.

Năm là, thực tế hiện nay, các tranh chấp hợp đồng thương mại vô hiệu ngày càng phổ biến và khá phức tạp. Do đó, trong thực tiễn xét xử, Tòa án còn khá lúng túng, khó khăn trong việc lựa chọn áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu. Điều đó gây mất thời gian cho chính Tòa án và các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại. Ngoài ra, việc kéo dài thời gian giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ làm cho doanh nghiệp thiệt hại rất lớn về tài sản, uy tín, thương hiệu của mình.

2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu

Một là, cần bổ sung một điều khoản định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm “hợp đồng thương mại vô hiệu”. Việc quy định cụ thể về khái niệm hợp đồng thương mại vô hiệu sẽ góp phần giúp các chủ thể trong quan hệ hợp đồng, cũng như cơ quan nhà nước phân biệt hợp đồng thương mại với các loại hợp đồng khác một cách rõ ràng và chính xác, từ đó, dễ dàng hơn trong việc áp dụng pháp luật để xác định hợp đồng thương mại vô hiệu, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ hợp đồng, cũng như giúp cho việc xét xử của các cán bộ Tòa án được công bằng và hiệu quả hơn.

Hai là, cần xây dựng một quy định riêng biệt về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Như đã phân tích ở trên, hiện nay, đối với các hợp đồng thương mại sẽ căn cứ vào quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 dường như không phù hợp để áp dụng cho các hợp đồng thương mại. Do đó, trên thực tế, khi xem xét và áp dụng pháp luật để xác định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại thì phải căn cứ cả Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 dẫn đến việc làm cho các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại khá lúng túng trong việc tìm hiểu và tuân theo pháp luật, cũng như gây khó khăn cho Tòa án trong việc xem xét và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu. Chính vì vậy, cần có một quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong Luật Thương mại năm 2005 để giải quyết hiệu quả vấn đề này.

Ba là, cần sửa đổi khái niệm “thương nhân” trong Luật Thương mại năm 2005 cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và quy định của pháp luật hiện hành. Bởi, như đã phân tích ở trên, việc Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa về “thương nhân” với điều kiện bắt buộc là phải đăng ký kinh doanh là chưa chính xác và không còn phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, việc quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho các bên trong khi giao kết các hợp đồng thương mại và ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật của Tòa án khi xem xét các hợp đồng thương mại vô hiệu.

Bốn là, tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật khi ký kết các hợp đồng thương mại dưới các hình thức như tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo, diễn đàn, các khóa học tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể tự tin khi giao kết các hợp đồng thương mại với đối tác của mình, góp phần hạn chế rủi ro pháp lý, nâng cao khả năng giao kết hợp đồng thương mại thành công.

Năm là, đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ Tòa án, đặc biệt là thẩm phán thông qua các khóa đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng. Bởi, thương mại là một lĩnh vực rất đa dạng và luôn tiềm ẩm nhiều vấn đề phức tạp, đòi hỏi thẩm phán phải có trình độ, chuyên môn cao, có kinh nghiệm xét xử để kịp thời nắm bắt và áp dụng hiệu quả pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến lĩnh vực thương mại nói chung về hợp đồng thương mại vô hiệu nói riêng. Bên cạnh đó, chú trọng việc tổ chức các buổi giao lưu, tọa đàm, hội thảo chia sẻ kinh nghiệm giữa các thẩm phán, luật sư, chuyên gia với nhau để nâng cao kinh nghiệm xét xử và hiệu quả áp dụng pháp luật cho đội ngũ Tòa án. Từ đó, đào tạo được đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghiệp vụ xét hỏi vững vàng, bảo đảm chất lượng cũng như tính hợp pháp của các bản án, quyết định[8].

ThS. Trần Linh Huân

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

ThS. Phạm Thị Hồng Tâm

Trường Đại học Phan Thiết

ThS. Đỗ Thị Lan Anh

Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh: internet

[1]. Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao, https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-chi-dao-dieu-hanh?dDocName=TAND155594, truy cập ngày 25/9/2023.

[2]. Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), “Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2020”, https://www.viac.vn/thong-ke/thong-ke-hoat-dong-giai-quyet-tranh-chap-nam-2020-s36.html, truy cập ngày 25/9/2023.

[3]. Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4]. Minh NH, “Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại”, https://econtract.efy.com.vn/hddt/phan-biet-hop-dong-dan-su-va-hop-dong-thuong-mai.html#/, truy cập ngày 25/9/2023.

[5]. Điều 31 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[6]. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, “Giáo trình Pháp luật về Thương mại hàng hóa và dịch vụ”, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2019, tr. 97.

[7]. Phan Huy Hồng, “Bàn về phạm vi năng lực pháp luật của pháp nhân kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2005, tr. 59.

[8]. Nguyễn Thị Như Trang, “Pháp luật về hợp đồng thương mại vô hiệu ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật, Đại học Huế, 2020, tr. 60.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 390), tháng 10/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm