Chủ nhật 08/06/2025 12:15
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định về tạm ngừng phiên tòa và vướng mắc trong thực tiễn xét xử

Tạm ngừng phiên tòa là quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quy định này nhằm khắc phục những bất cập trong quá trình xét xử vụ án tại phiên tòa. Do đây là quy định mới chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên trong thực tiễn xét xử đã nảy sinh những vướng mắc dẫn đến sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật.

Theo quy định tại Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây: (i) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng không thể tiếp tục tiến hành phiên tòa, trừ trường hợp thay thế được người tiến hành tố tụng; (ii) Do tình trạng sức khỏe hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa, trừ trường hợp người tham gia tố tụng có yêu cầu xét xử vắng mặt; (iii) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa; (iv) Chờ kết quả giám định bổ sung, giám định lại; (v) Các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải; (vi) Cần phải báo cáo Chánh án Tòa án để đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 221 của Bộ luật này. Việc tạm ngừng phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa.

Nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về tạm ngừng phiên tòa và vận dụng quy định này vào thực tiễn xét xử thì phát sinh một số vướng mắc sau:

Thứ nhất, theo quy định, nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Vậy Tòa án có phải mở lại phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết này không?

Khoản 2 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa mà không có quy định thông báo về thời gian mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Điều này dẫn đến việc hiểu và áp dụng pháp luật không thống nhất. Có quan điểm cho rằng, Tòa án phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Nhưng theo quan điểm khác thì không cần thiết phải làm như vậy mà Hội đồng xét xử chỉ cần tiến hành nghị án và thẩm phán chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định này cho đương sự, Viện kiểm sát.

Thứ hai, nếu hết thời hạn 01 tháng đương sự vẫn còn đang thỏa thuận thì có coi là lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục không? Trường hợp này, Tòa án tiếp tục phiên tòa hay tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự?

Thế nào là lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì chưa được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng. Khoản 2 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà không nêu rõ lý do nào trong các lý do quy định tại khoản 1 Điều này. Vì vậy, có quan điểm cho rằng, việc đương sự vẫn còn đang tự thỏa thuận thì cũng được coi là lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục, nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Theo tác giả thì quan điểm này chưa thật sự hợp lý. Bởi việc trước khi đưa vụ án ra xét xử các đương sự đã không tự thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tạm ngừng phiên tòa để họ tự thỏa thuận trong thời hạn 01 tháng, nên khi hết thời hạn 01 tháng mà đương sự vẫn không thỏa thuận được thì Tòa án phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là hợp lý hơn. Hơn nữa, cụm từ “chưa được khắc phục” không thể dùng cho lý do “các đương sự thống nhất đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên tòa để họ tự hòa giải”.

Thứ ba, nếu hết thời hạn 01 tháng, sức khỏe đương sự ổn định có thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Khi đến ngày Tòa án thông báo tiếp tục phiên tòa, đương sự này không có mặt (trong trường hợp đây là phiên tòa lần thứ nhất) mà không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án xét xử vắng mặt hay hoãn phiên tòa

Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng, đương sự đã có mặt tại phiên tòa ngay từ đầu nên sau khi không còn lý do tạm ngừng phiên tòa, Tòa án đã thông báo cho đương sự biết thời gian tiếp tục phiên tòa nhưng họ vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành phiên tòa mà không coi là họ vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất để hoãn phiên tòa như quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bởi quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 áp dụng cho trường hợp đương sự vắng mặt ngay từ đầu phiên tòa chứ không phải là trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa rồi sau đó vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Cũng có quan điểm cho rằng, Tòa án cần linh động hoãn phiên tòa để triệu tập đương sự lần thứ hai là nhằm bảo đảm quyền lợi của đương sự trong vụ án. Nếu họ tiếp tục vắng mặt thì Tòa án hoàn toàn có căn cứ để xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Xem xét quy định về hoãn phiên tòa tại Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thấy rằng, Hội đồng xét xử chỉ được quyết định hoãn phiên tòa trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 56, khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 84, Điều 227, khoản 2 Điều 229, khoản 2 Điều 230, khoản 2 Điều 231 và Điều 241 của Bộ luật Tố tụng dan sự năm 2015. Mà trường hợp trên theo tác giả không thể xác định là đương sự được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ nhất. Chính vì vậy, việc Tòa án hoãn phiên tòa là chưa có căn cứ pháp lý.

Thứ tư, nếu hết thời hạn 01 tháng, thẩm phán chủ tọa phiên tòa vẫn không thể tiếp tục tham gia phiên tòa vì lý do sức khỏe mà không có thẩm phán dự khuyết thay thế thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Khi đó, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì phải tiến hành nghị án, vậy việc biểu quyết thực hiện như thế nào và ai ký quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án?

Vấn đề này hiện đang vướng về quy định của pháp luật. Theo khoản 2 Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án phải được Hội đồng xét xử thảo luận, thông qua tại phòng nghị án và lập thành văn bản. Về nguyên tắc, khi nghị án, Hội đồng xét xử biểu quyết theo đa số nhưng trong trường hợp này chỉ có hai hội thẩm nhân dân nên không thể biểu quyết theo nguyên tắc đa số.

Thứ năm, nếu phiên tòa diễn ra đến kết thúc phần tranh tụng thì Kiểm sát viên vì lý do sức khỏe không thể tiếp tục tham gia phiên tòa. Theo quy định, Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Nếu hết thời hạn 01 tháng, kiểm sát viên không thể tiếp tục phiên tòa, Viện kiểm sát cử kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa nhưng kiểm sát viên dự khuyết không tham gia phiên tòa ngay từ đầu thì Tòa án tiếp tục phiên tòa hay quay lại từ đầu?

Nghiên cứu quy định về sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trường hợp kiểm sát viên không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử nhưng có kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu. Tuy nhiên, trường hợp trên thì kiểm sát viên không có mặt tại phiên tòa ngay từ đầu và trong thực tiễn xét xử thì đa phần không có kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa ngay từ đầu. Điều này bắt buộc Tòa án phải quay lại từ đầu phiên tòa theo thủ tục chung. Liệu việc Tòa án quay lại từ đầu phiên tòa có hợp lý không trong khi theo quy định nếu sau khi Hội đồng xét xử tiến hành nghị án và không cần quay lại hỏi để làm rõ thêm vấn đề gì thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên án.

Từ những vướng mắc nêu trên, tác giả bài viết mong được các độc giả cùng trao đổi để việc hiểu và áp dụng hướng dẫn quy định tại Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cho thống nhất.

Dương Tấn Thanh

Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh



Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm