Thứ hai 30/06/2025 11:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định về xét tuyển và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, viên chức - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Theo quy định hiện hành, việc xét tuyển công chức, viên chức được quy định tại Điều 35, 36, 37, 38 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Điều 20, 21, 22, 23, 24 Luật Viên chức năm 2010. Đến ngày 01/7/2020 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sẽ có hiệu lực thi hành. Theo đó, pháp luật quy định rõ căn cứ, nguyên tắc, điều kiện, phương thức và tổ chức thực hiện tuyển dụng, xác định rõ nguyên tắc tuyển dụng phải: Bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật; bảo đảm tính cạnh tranh; tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và vị trí việc làm; ưu tiên tuyển chọn người có tài năng, người có công với nước, người dân tộc thiểu số.

1. Quy định hiện hành về xét tuyển và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, viên chức


Để hướng dẫn cụ thể việc xét tuyển và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, viên chức, hiện nay Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị định số 161/2018/NĐ-CP) có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2019 đang được thực hiện. Theo đó, Nghị định quy định chi tiết, cụ thể về nội dung và hình thức xét tuyển công chức, viên chức được thực hiện theo 02 vòng như sau: (i) Vòng 1: Kiểm tra điều kiện, tiêu chuẩn của người dự tuyển theo yêu cầu của vị trí việc làm đã đăng ký tại Phiếu đăng ký dự tuyển, nếu phù hợp thì người dự tuyển được tham dự vòng 02; (ii) Vòng 2: Phỏng vấn để kiểm tra về năng lực, trình độ chuyên môn của người dự tuyển; điểm phỏng vấn được tính theo thang điểm 100; thời gian phỏng vấn 30 phút; không thực hiện việc phúc khảo đối với kết quả phỏng vấn hoặc thực hành (khoản 6 Điều 1; khoản 5 Điều 2 Nghị định 161/2018/NĐ-CP). Như vậy, về cơ bản Nghị định số 161/NĐ-CP đã thể hiện được tinh thần của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức về việc đổi mới từ cơ chế tuyển dụng theo phương thức truyền thống (thi tập trung, cùng chung nội dung, hình thức thi) sang cơ chế tuyển dụng theo tiêu chuẩn chức danh gắn với vị trí việc làm. Đồng thời, góp phần tích cực nâng cao chất lượng tuyển dụng, phòng chống tiêu cực và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quy trình tổ chức tuyển dụng.

Đối với trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức Nghị định 161/2018/NĐ-CP quy định rõ: Người đứng đầu cơ quan quản lý công chức được tiếp nhận không qua thi tuyển vào công chức đối với các trường hợp sau: Có ít nhất 05 năm công tác ở vị trí việc làm yêu cầu trình độ đào tạo đại học trở lên phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng và có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (không kể thời gian tập sự, thử việc, nếu có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc không liên tục mà chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì được cộng dồn), gồm: Viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập; người hưởng lương trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) và người làm công tác cơ yếu… (khoản 7 Điều 1).

Đối với trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng viên chức thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng viên chức được xem xét tiếp nhận vào viên chức đối với các trường hợp sau: Có ít nhất 05 năm công tác ở vị trí việc làm yêu cầu trình độ đào tạo đại học trở lên phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng và có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc (không kể thời gian tập sự, thử việc, nếu có thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc không liên tục mà chưa nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì được cộng dồn), gồm: Người ký hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; người hưởng lương trong lực lượng vũ trang (quân đội, công an) và người làm công tác cơ yếu; cán bộ, công chức cấp xã… (khoản 7 Điều 2).

Tiếp đó, ngày 14/5/2019 Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BNV về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập (Thông tư số 03/2019/TT-BNV). Theo đó, Thông tư đưa ra Quy chế tổ chức xét tuyển công chức, viên chức, xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức quy định rất chi tiết, cụ thể với nội dung về việc phỏng vấn, thực hành: (i) Thời gian chuẩn bị và trả lời câu hỏi phỏng vấn của mỗi thí sinh không quá 30 phút; (ii) Thời gian thực hành do Chủ tịch Hội đồng xét tuyển quyết định phù hợp với tính chất hoạt động nghề nghiệp, yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển; (iii) Khi chấm điểm phỏng vấn, thực hành, các thành viên chấm độc lập trên phiếu chấm điểm đối với từng thí sinh… (khoản 2 Điều 5 Quy chế).

Thêm vào đó, quy định rõ ràng về việc lưu trữ tài liệu của kỳ xét tuyển gồm: Các văn bản về tổ chức kỳ xét tuyển do người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức, viên chức ký ban hành; các văn bản của Hội đồng xét tuyển; biên bản các cuộc họp Hội đồng xét tuyển; danh sách tổng hợp người dự tuyển; các biên bản giao nhận đề phỏng vấn hoặc thực hành (kèm theo đáp án), biên bản xác định tình trạng niêm phong đề phỏng vấn hoặc thực hành, biên bản vi phạm quy chế, nội quy xét tuyển (nếu có); đề gốc để phỏng vấn hoặc thực hành; bảng tổng hợp kết quả điểm phỏng vấn hoặc thực hành; kết quả xét tuyển; quyết định công nhận kết quả xét tuyển; biên bản giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có) và các loại văn bản khác liên quan đến kỳ xét tuyển.

Đặc biệt Thông tư số 03/2019/TT-BNV đưa ra nội quy kỳ tuyển dụng công chức, viên chức, thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức “chỉ được mang vào phòng thi bút viết, thước kẻ; không được mang vào phòng thi điện thoại di động, máy ghi âm, máy ảnh, máy vi tính, các phương tiện kỹ thuật thu, phát truyền tin, phương tiện sao lưu dữ liệu, thiết bị chứa đựng, truyền tải thông tin khác và các loại giấy tờ, tài liệu có liên quan đến nội dung thi…”.

Ngoài các văn bản nêu trên, còn có Quyết định số 546/2019/QĐ-BNV ngày 12/7/2019 của Bộ Nội vụ công bố thủ tục hành chính về lĩnh vực công chức, viên chức Bộ Nội vụ góp phần mạnh mẽ trong việc cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm được quyền và lợi ích của công chức, viên chức nói riêng.

2. Một số bất cập về xét tuyển và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, viên chức

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 6 Điều 1 và khoản 5 Điều 2 Nghị định 161/2019/NĐ-CP thì xét tuyển công chức, viên chức được thực hiện theo 02 vòng: Vòng 1- kiểm tra điều kiện, tiêu chuẩn theo yêu cầu vị trí việc làm tại Phiếu đăng ký dự tuyển; vòng 2 - phỏng vấn để kiểm tra về năng lực, trình độ chuyên môn của người dự tuyển. Nghị định quy định “không thực hiện việc phúc khảo đối với kết quả phỏng vấn hoặc thực hành”, trong khi đó, pháp luật hiện hành không quy định trong quá trình phỏng vấn hoặc thực hành phải có thiết bị ghi âm, ghi hình đối với người phỏng vấn và người thực hiện phỏng vấn. Hơn nữa, khi quy định về lưu trữ tài liệu không có quy định minh chứng, bằng chứng lưu trữ cho việc phỏng vấn hoặc thực hành đối với người tham gia xét tuyển công chức, viên chức (Điều 8 Thông tư số 03/2019/TT-BNV). Điều này, dễ dẫn đến hiện tượng tiêu cực, thiếu sự công bằng, minh bạch trong quá trình phỏng vấn.

Thứ hai, đối với trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng viên chức, thực tế nhiều người có kinh nghiệm, bằng cấp đáp ứng đủ yêu cầu để thực hiện việc tiếp nhận đối với công chức, viên chức gồm: (i) Có ít nhất 05 năm công tác ở vị trí làm việc; (ii) Yêu cầu trình độ đào tạo đại học trở lên phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng; (iii) Được đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và (iv) Người ký hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất đối với viên chức, đặc biệt đối với giáo viên hợp đồng hiện nay đó chính là điều kiện “người ký hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập”. Bởi vì hiện nay, có những đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước mà chưa phải là đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên, chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Điều này dẫn đến tình trạng viên chức có đủ điều kiện về nội dung (thời gian, trình độ, bảo hiểm) nhưng không đủ điều kiện về hình thức (đơn vị công tác). Do đó, quy định ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp.

Thứ ba, pháp luật quy định về điều kiện, quy trình, quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm và việc xếp ngạch, bậc lương đối với công chức, viên chức được tiếp nhận trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, lại không có quy định việc thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của cơ quan và niêm yết công khai tại trụ sở làm việc về tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, thời gian, địa điểm về nhu cầu tiếp nhận công chức, viên chức. Trên thực tế, có một số cơ quan, đơn vị trên cả nước đã thông báo công khai nhu cầu tiếp nhận công chức, viên chức về công tác tại đơn vị nhưng còn chiếm tỷ lệ thấp. Chính vì vậy, người đứng đầu cơ quan quản lý công chức, viên chức được xem xét tiếp nhận không biết hoặc không có nhiều sự lựa chọn, chọn lọc đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đồng thời, người có nhu cầu chuyển công tác mặc dù có đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ nhưng không được biết thông tin, tính cạnh tranh không được bảo đảm. Do đó, hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, thiếu khách quan là điều có thể xảy ra, đồng thời không đảm bảo được nguyên tắc công khai, minh bạch trong tuyển dụng.

Thứ tư, nếu như Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quy định xét tuyển công chức gồm: Xét kết quả học tập của người dự tuyển và phỏng vấn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ thì Nghị định số 161/2018/NĐ-CP đã bỏ nội dung “xét kết quả học tập của người dự tuyển” mà chỉ kiểm tra điều kiện, tiêu chuẩn (vòng 1) và chuyển sang phỏng vấn (vòng 2 - nội dung mang tính chất quyết định có trúng tuyển hay không). Thêm vào đó, Điều 19 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP quy định 03 đối tượng được xem xét tiếp nhận công chức là: (i) Người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở trong nước; (ii) Người tốt nghiệp đại học, sau đại học loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài; (iii) Người có trình độ đào tạo từ đại học trở lên, có kinh nghiệm công tác trong ngành, lĩnh vực cần tuyển dụng từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Đến nay, theo quy định hiện hành đã bỏ đối tượng (i) và (ii). Quy định này có thể sẽ “bỏ lọt” đối với người có tài năng, xuất sắc. Để khắc phục tình trạng này Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức đã bổ sung thêm hình thức xét tuyển với các trường hợp: Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ tài năng; người học theo chế độ cử tuyển theo quy định của Luật Giáo dục, sau khi tốt nghiệp về công tác tại địa phương cử đi học... Điều này đã mở rộng cơ hội được tuyển vào công chức hơn đối với nhiều người.

Đối với việc xét tuyển viên chức, Điều 11 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức quy định nội dung xét tuyển viên chức có “xét kết quả học tập bao gồm điểm học tập và điểm tốt nghiệp của người dự tuyển”, tuy nhiên đến quy định hiện hành (Nghị định số 161/2019/NĐ-CP, Thông tư số 03/2019/TT-BNV không còn có quy định này). Thêm vào đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức có hiệu lực vào 01/7/2020 cũng không quy định. Điều này, vô hình trung làm cho cơ hội của người có tài năng, xuất sắc được tuyển vào viên chức trở nên hẹp hơn.

Thứ năm, trong Luật cán bộ, công chức và Luật Viên chức cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 quy định rõ có 03 hình thức tuyển dụng là thi tuyển, xét tuyển và tiếp nhận trong trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, trên thực tế, ở một số địa phương việc tổ chức các phương thức tuyển dụng chưa có sự đan xen nhau để lựa chọn được người có năng lực, đáp ứng được nhu cầu và vị trí việc làm. Đặc biệt, kể từ khi Nghị định số 161/2019/NĐ-CP có hiệu lực, một số địa phương chỉ thực hiện hình thức xét tuyển và tiếp nhận trong trường hợp đặc biệt.

3. Kiến nghị hoàn thiện trong xét tuyển công chức, viên chức và trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, viên chức

Một là, cần có quy định chặt chẽ trong văn bản quy pháp pháp luật để hướng dẫn thi hành, theo đó, quy định rõ trong quá trình phỏng vấn hoặc thực hành phải có thiết bị ghi âm, ghi hình đối với người phỏng vấn và người thực hiện phỏng vấn. Thêm vào đó, về lưu trữ tài liệu cần quy định rõ ràng về minh chứng, bằng chứng lưu trữ cho việc phỏng vấn hoặc thực hành đối với người tham gia và người thực hiện xét tuyển công chức, viên chức. Điều này sẽ đảm bảo được nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan trong quá trình phỏng vấn khi xét tuyển công chức, viên chức.

Hai là, đối với trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng viên chức, rào cản lớn nhất (đặc biệt với viên chức hợp đồng hiện nay), chính là điều kiện về hình thức (đơn vị công tác) phải là đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, chi đầu tư và đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Quy định này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của viên chức trong các đơn vị sự nghiệp. Do đó, đề xuất quy định theo hướng như sau: “Người ký hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật làm công việc chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập hoặc đơn vị sự nghiệp ngoài công lập”.

Ba là, cần bổ sung quy định việc thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của cơ quan và niêm yết công khai tại trụ sở làm việc về tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, thời gian, địa điểm về nhu cầu tiếp nhận công chức, viên chức. Điều này góp phần quan trọng trong việc lựa chọn người có năng lực, trình độ đáp ứng được yêu cầu, là cơ hộ mở cho công chức, viên chức.Đặc biệt, đảm bảo được nguyên tắc cạnh trong việc tiếp nhận công chức, viên chức.

Bốn là, đề xuất kế thừa nội dung tại điều 11 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức trong xét tuyển là xét đến cả yếu tố “kết quả học tập bao gồm điểm học tập và điểm tốt nghiệp của người dự tuyển”. Điều này, góp phần lựa chọn thêm được người có năng lực, người có tài năng trong các đơn vị sự nghiệp công lập.

Năm là, cần linh hoạt đổi mới hình thức, phương thức tuyển dụng bằng cách đan xen thi tuyển và xét tuyển nhằm chọn đúng người có năng lực. Điều này hoàn toàn phù hợp tinh thần của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức nhằm nâng cao chất lượng đầu vào công chức, bảo đảm công khai, minh bạch, thiết thực, hiệu quả. Việc tuyển dụng không chỉ đơn thuần là hình thức hợp lý hóa vào biên chế mà đây là khâu quan trọng bổ sung nguồn nhân lực nền công vụ nói chung và cho cơ quan, đơn vị riêng. Do đó, cần tăng cường, nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người làm công tác tuyển dụng và phải kiên quyết xử lý nghiêm các sai phạm liên quan đến tổ chức kỳ thi. Bên cạnh đó, cần phải có cơ chế kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ từ các khâu trong quy trình tuyển dụng.

ThS. Đèo Thị Thiết

Trường Trung cấp Luật Tây Bắc

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm