Chủ nhật 28/09/2025 01:55
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam

Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật Việt Nam

Bài viết này phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, việc xét xử là của Tòa án và Tòa án bảo đảm hai chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Quyền hạn của Hội đồng xét xử vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong tố tụng dân sự. Việc quy định hợp lý quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là cơ sở để giải quyết nhanh chóng, dứt điểm vụ án dân sự. Do đó, việc đánh giá thực trạng và kiến nghị hoàn thiện vấn đề thực hiện quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự là việc làm cần thiết để nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án dân sự của Tòa án.

1. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành

Dưới góc độ pháp lý thì “quyền hạn” được hiểu là “quyền của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật. Quyền hạn của một chủ thể được pháp luật quy định đồng thời cũng là nhiệm vụ của chủ thể đó được sử dụng để thực hiện chức năng, trách nhiệm nhất định của chủ thể đó”[1]. Theo đó, có thể hiểu, quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong tố tụng dân sự là quyền tham gia quyết định thực hiện các hoạt động tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật kể từ khi được Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm phân công giải quyết án cho đến khi ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm.

Theo Điều 64 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự gồm ba thẩm phán, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật (việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn do một thẩm phán tiến hành). Hội đồng xét xử có quyền hạn thực hiện những hoạt động tố tụng cần thiết nhằm giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, gồm có:

- Về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời: Theo Điều 112 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự, nếu thấy cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Về thẩm quyền và thủ tục áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự thì quyền xem xét và quyết định thuộc về Hội đồng xét xử. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa phúc thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ chứng cứ, giữ nguyên được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được chính xác. Trường hợp lý do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều này thể hiện sự linh hoạt trong tố tụng, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.

- Về việc sửa bản án sơ thẩm: Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa đổi một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa ra quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp được quy định tại Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm: Khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Việc thu thập chứng cứ và chứng minh không tuân thủ đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được. Như vậy, khi Hội đồng xét xử phúc thẩm phát hiện việc thu thập chứng cứ và chứng minh trong vụ án không tuân thủ đúng quy định hoặc chưa được thực hiện đầy đủ, dẫn đến không thể bổ sung thêm thông tin trong phiên tòa phúc thẩm, họ có quyền hủy bỏ bản án sơ thẩm hoặc một phần bản án và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Điều này giúp đảm bảo tính công bằng và chính xác trong xét xử và giải quyết vụ án.

- Về hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án: Theo quy định tại Điều 311 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 trường hợp mà trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 217 và điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Điều này nhằm đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong quá trình xét xử và giải quyết vụ án dân sự.

- Về tạm đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm:

Theo quy định tại khoản 6 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc giải quyết vụ án có thể được tạm đình chỉ khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có văn bản kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Quá trình tạm đình chỉ này kéo dài cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lời Tòa án về kết quả xử lý văn bản có dấu hiệu vi phạm.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 312 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm khi thuộc một trong các trường hợp: (i) Người kháng cáo đã rút lại toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị; (ii) Người kháng cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp vụ án có người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền giữ nguyên bản án sơ thẩm. Điều này có nghĩa là, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định không sửa đổi hay hủy bỏ bản án sơ thẩm.

Thực tiễn thực hiện quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự cho thấy một số bất cập như sau:

Thứ nhất, thiếu sót trong việc không quy định căn cứ giữ nguyên bản án sơ thẩm và không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Do không quy định căn cứ áp dụng quyền hạn của Hội đồng xét xử thì việc Hội đồng xét xử ra quyết định hoàn toàn căn cứ vào ý chí chủ quan của mình để giải quyết mà không dựa trên các căn cứ pháp lý.

Thứ hai, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, Hội đồng xét xử có quyền giữ nguyên bản án sơ thẩm (khoản 1 Điều 308) và sửa bản án sơ thẩm (khoản 2 Điều 308). Trong trường hợp một vụ án dân sự bị kháng cáo và đang trong quá trình xem xét giải quyết vụ án, không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của đương sự, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy rằng trong quá trình thụ lý vụ án, nguyên đơn có nộp tạm ứng án phí và Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện nhưng không trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn hoặc có vụ án tuyên nghĩa vụ chịu án phí có giá ngạch không đúng theo quy định làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, dẫn đến cấp phúc thẩm phải xem xét sửa bản án sơ thẩm. Về việc áp dụng pháp luật trong trường hợp trên, có hai quan điểm như sau:

(i) Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần áp dụng cả khoản 1 và khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vì các lý do sau: Kháng cáo của đương sự không được chấp nhận, vì vậy cần áp dụng khoản 1 là giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đồng thời, khi phát hiện vi phạm trong bản án sơ thẩm, cần sửa đổi phần bản án đó. Do đó, cần áp dụng cả khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để bảo đảm tinh thần và quyền lợi của đương sự trong việc áp dụng pháp luật.

(ii) Quan điểm thứ hai cho rằng, “giữ nguyên bản án sơ thẩm” chỉ áp dụng khi Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy rằng các quyết định trong bản án sơ thẩm đã có căn cứ và tuân thủ pháp luật. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ giữ nguyên toàn bộ nội dung của bản án sơ thẩm. Việc sửa bản án sơ thẩm chỉ xảy ra khi Hội đồng xét xử phúc thẩm phát hiện vi phạm trong bản án sơ thẩm, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự và quyết định thay đổi nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm. Vì vậy, tùy thuộc vào các điều kiện và tình huống cụ thể, sẽ được quyết định áp dụng cả khoản 1 và khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hoặc chỉ áp dụng khoản 2 để bảo đảm tính thẩm định và quyền lợi của đương sự trong việc áp dụng pháp luật.

Thứ ba, theo quy định tại Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp: Việc thu thập chứng cứ và chứng minh đã được thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (khoản 1); việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã được bổ sung đầy đủ (khoản 2).

Quy định của khoản 2 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa thực sự hợp lý. Bởi lẽ, “quyết định không đúng pháp luật” của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp này là sai lầm trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án chứ không phải là sai lầm trong áp dụng pháp luật nội dung như trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Thứ tư, quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có sự mâu thuẫn với khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về việc hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Theo quy định này thì trách nhiệm chứng minh và thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án thuộc về Tòa án, như vậy, có sự mâu thuẫn với quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các đương sự và Tòa án chỉ có trách nhiệm xem xét các chứng cứ mà đương sự đưa ra có căn cứ không, trong một số trường hợp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định thì Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ như lấy lời khai đương sự, người làm chứng, đối chất, thẩm định, trưng cầu giám định, định giá tài sản... “Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó có căn cứ và hợp pháp” (khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Do đó, nếu quy định căn cứ cho việc hủy án chỉ dựa trên “việc thu thập chứng cứ và chứng minh không theo đúng quy định tại Chương VII của Bộ luật này hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được”[2] thì chưa bảo đảm nguyên tắc về quyền tự quyết định và tự định đoạt của các bên tham gia vụ án.

2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới

Một là, việc không quy định căn cứ áp dụng quyền hạn của Hội đồng xét xử đối với quyền “giữ nguyên bản án sơ thẩm” dẫn đến Hội đồng xét xử có thể ra quyết định căn cứ vào ý chí chủ quan của mình mà không dựa trên các căn cứ pháp lý. Do đó, Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành cần sửa đổi, bổ sung căn cứ không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm theo hướng Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm và không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị nếu kháng cáo, kháng nghị hợp lệ nhưng không có căn cứ và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 289, khoản 2 và khoản 3 Điều 296, Điều 299, Điều 300, Điều 309 và Điều 311 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Hai là, tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai (nêu trên) về “giữ nguyên bản án sơ thẩm” chỉ áp dụng khi Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy rằng các quyết định trong bản án sơ thẩm đã có căn cứ và tuân thủ pháp luật. Vấn đề này cần phải có sự nghiên cứu cụ thể và Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể.

Ba là, sửa đổi Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm trong các trường hợp sau đây: (i) Tòa án cấp sơ thẩm có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật; (ii) Tòa án cấp phúc thẩm xác định được những tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét và chứng cứ bổ sung.

Bốn là, cần hướng dẫn cụ thể đối với việc hủy án trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để có căn cứ hủy án chính xác.

Năm là, Tòa án các cấp cần tổ chức định kỳ các buổi tập huấn, đào tạo để trau dồi kiến thức chuyên sâu và cung cấp các ấn phẩm phân tích về quyền hạn của Hội đồng xét xử nói chung cũng như Hội đồng xét xử phúc thẩm tố tụng dân sự nói riêng. Tòa án cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi rút kinh nghiệm từ những vụ án có sai sót, đồng thời cần bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán. Ngoài ra, cần chủ động báo cáo và đề nghị Tòa án cấp trên hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất đối với những vướng mắc trong quá trình xét xử các vụ án dân sự.

Vũ Thị Minh Hằng

Đại học Luật Hà Nội

[1]. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa & Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 651.

[2]. Khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Lao Động.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 386), tháng 8/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền tiếp cận công lý của công dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế được xác định là một mục tiêu trọng tâm. Trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu, cầu nối đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.
Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí, trong đó đã thể chế hóa các chính sách về trợ cấp hưu trí xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là những người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo không được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025. Luật đã nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.
Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý, là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật.
Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật Nhà giáo năm 2025 nhằm xác lập vị trí pháp lý đầy đủ cho nhà giáo trong cả cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.
Điều kiện để được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường

Điều kiện để được hưởng chế độ tiền lương và phụ cấp cao hơn so với nhà giáo làm việc trong điều kiện bình thường

Đây là một trong những nội dung mới quan trọng được quy định tại Luật Nhà giáo năm 2025 nhằm thu hút và hỗ trợ nhà giáo về công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi