Thứ bảy 07/06/2025 15:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quyền hưởng di sản của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc qua thực tiễn xét xử tại Tòa án

Trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc, quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án các cấp nhìn chung đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử các vụ án thừa kế công bằng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên liên quan. Mặc dù vậy, tác giả nhận thấy, vẫn còn một số trường hợp Tòa án áp dụng chưa đúng tinh thần của các quy định pháp luật, dẫn đến phán quyết của Tòa án thiếu tính thuyết phục, do đó, cần có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.


1. Quyền hưởng di sản của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ/chồng và con thành niên mà không có khả năng lao động thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng di sản theo di chúc hoặc có cho hưởng nhưng phần mà họ được hưởng theo di chúc ít hơn 2/3 của một suất thừa kế nếu di sản được chia theo pháp luật. Không cho hưởng được hiểu là người lập di chúc thể hiện rõ ý chí truất quyền hưởng di sản của những người nói trên hoặc là không đề cập đến những người này trong di chúc. Trường hợp người lập di chúc cho những người này hưởng di sản nhưng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật thì họ cũng được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, họ phải được hưởng ít nhất bằng 2/3 suất thừa kế nói trên.

Quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong Bộ luật Dân sự hướng tới bảo vệ quyền lợi của các chủ thể là cha, mẹ của người lập di chúc, vợ hoặc chồng của người lập di chúc, con của người lập di chúc mà chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Như vậy, theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể hiểu rằng, người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nếu là cha, mẹ thì không phân biệt cha, mẹ đẻ hay cha, mẹ nuôi; đối với con thì không phân biệt là con đẻ hay con nuôi và con đã thành niên mất khả năng lao động không phân biệt mất khả năng lao động vào thời điểm nào; đối với vợ/chồng được hưởng loại thừa kế này phải là vợ/chồng hợp pháp theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Khi phân chia di sản thừa kế theo di chúc, nếu có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì Tòa án cần đưa họ vào diện được hưởng thừa kế để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ. Mặc dù vậy, không phải tất cả các vụ án tranh chấp về thừa kế mà Tòa án xét xử đều đảm bảo được điều này.

2. Quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhìn từ thực tiễn xét xử tại Tòa án

Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định khá hoàn chỉnh vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế, tuy nhiên, dưới góc độ thực tiễn xét xử vẫn còn một số bất cập cần sớm khắc phục. Để có cái nhìn rõ nét hơn, tác giả xin viện dẫn một số ví dụ cụ thể sau đây:

Ví dụ 1:

Ông Đ và bà T là vợ chồng có đăng ký kết hôn ngày 26/5/1967 tại Ủy ban nhân dân xã M huyện N tỉnh B, có một con chung là chị H. Sau ngày miền Nam giải phóng, ông Đ chuyển công tác vào tỉnh G còn mẹ con bà T vẫn ở lại tỉnh B. Ngày 07/10/1992, ông Đ nhận chuyển nhượng 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G để cất nhà. Ngày 20/10/1994, ông Đ làm thủ tục đăng ký kết hôn với bà C và chung sống với bà C. Năm 2001, ông Đ có lập di chúc cho bà C hưởng toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, đồ dùng trong gia đình. Năm 2003, ông Đ chết thì vợ chồng chị H đã vào ở tại căn nhà này cùng bà C, sau đó xảy ra tranh chấp khối di sản nói trên. Bà C yêu cầu được hưởng thừa kế theo di chúc ông Đ để lại. Chị H cho rằng, bà C lấy ông Đ là bất hợp pháp nên chị không đồng ý yêu cầu hưởng thừa kế của bà C. Bà T có ý kiến rằng, căn nhà nói trên là do ông Đ tạo lập khi đang trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp với bà nên đây là tài sản chung của bà và ông Đ, do đó, bà không nhất trí theo yêu cầu của bà C. Bà T yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật để bà cùng chị H được hưởng thừa kế của ông T.

Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh G đã nhận định: Bà T là vợ hợp pháp của ông Đ, xác định quan hệ hôn nhân giữa bà C và ông Đ là trái pháp luật do khi lấy bà C, ông Đ đã có vợ hợp pháp và chưa ly hôn. Tuy căn nhà trên diện tích 500m2 đất tại xã X huyện Y tỉnh G được ông Đ tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà T vẫn tồn tại, nhưng giữa ông Đ và bà T có kinh tế riêng và ông Đ đứng tên riêng đối với nhà đất trên, hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, bà T thừa nhận căn nhà là do ông Đ tạo lập và là tài sản riêng của ông Đ và thực tế thì ông Đ đã chuyển vào tỉnh G công tác từ năm 1975, đến năm 1992, ông Đ mới nhận chuyển nhượng mảnh đất nói trên để xây nhà, còn bà T và chị H vẫn ở tỉnh B, do đó, có cơ sở xác định căn nhà trên diện tích 500m2 đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G là tài sản riêng của ông Đ. Vì vậy, ông Đ có quyền lập di chúc cho bà C thừa kế. Xác định di chúc của ông Đ lập ngày 27/02/2001 do ông Đ viết có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã X huyện Y tỉnh G là di chúc hợp pháp.

Từ đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà C, tuyên: Bà C được hưởng thừa kế theo di chúc ngày 27/02/2001 của ông Đ gồm các tài sản và nhà đất tọa lạc tại xã X huyện Y tỉnh G đã được ghi nhận tại biên bản xác minh đo đạc ngày 26/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Y. Bác yêu cầu phản tố của chị H và bà T kiện bà C tranh chấp chia tài sản thừa kế theo pháp luật đối với căn nhà và đất nói trên.

Có thể thấy, trong bản án, Tòa án đã áp dụng đúng quy định của Bộ luật Dân sự về chia thừa kế theo di chúc. Theo đó, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết (Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015, trước đây là Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005). Như vậy, khi cá nhân chết có để lại di chúc và di chúc đó đảm bảo các điều kiện có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự thì di chúc phát sinh hiệu lực khi người lập di chúc chết và người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc đủ điều kiện sẽ được hưởng di sản theo di chúc đó. Pháp luật nước ta không giới hạn quan hệ giữa người lập di chúc và người thừa kế theo di chúc, do đó, cá nhân có quyền lập di chúc để lại di sản cho bất kỳ ai, không phân biệt người đó có quan hệ thân thích hay không. Vì vậy, trong trường hợp này, Tòa án xác định bà C không phải là vợ hợp pháp của ông Đ nhưng do bà C là người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc của ông Đ nên Tòa án quyết định cho bà C được hưởng di sản của ông Đ để lại theo di chúc là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi vì ông Đ có quyền lập di chúc cho bất kỳ người nào hưởng di sản, không phụ thuộc việc bà C có là vợ hợp pháp hay không vẫn được thừa kế theo di chúc. Hơn nữa, Tòa án đã xác định ông Đ và bà T mặc dù còn tồn tại quan hệ hôn nhân nhưng đã không sống chung từ năm 1975 và có kinh tế độc lập, do đó, ông Đ có toàn quyền định đoạt khối tài sản nói trên theo di chúc. Việc quyết định như của Tòa án là hoàn toàn thuyết phục và phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự, pháp luật có liên quan.

Tuy nhiên, Tòa án đã bác bỏ quyền hưởng thừa kế của bà T vì xác định tài sản ông Đ định đoạt trong di chúc là tài sản riêng của ông Đ nên không liên quan đến bà T, để cho bà C được hưởng toàn bộ di sản của ông Đ là có sự thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật, chưa thuyết phục và ảnh hưởng đến quyền lợi của bà T. Bà T là vợ hợp pháp của ông Đ (theo xác định của Tòa án), theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 (trước đây là Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005) thì bà T thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, cho nên phải được hưởng một kỷ phần thừa kế ít nhất bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp người lập di chúc không cho hưởng.

Ví dụ 2:

Cụ Nguyễn Thị K có ba người con là bà M, ông Q và ông N. Năm 2005, cụ K chết có để lại di chúc cho ông N được hưởng thừa kế căn nhà tại phường T, thành phố H. Mặc dù theo di chúc của cụ K thì toàn bộ căn nhà này được để lại cho ông N nhưng vì tại thời điểm mở thừa kế, bà M đã 71 tuổi lại mang nhiều bệnh tật như huyết áp, tiểu đường, năm 2006 bị ngã và nằm liệt cho đến nay nên bà M yêu cầu được hưởng thừa kế di sản của cụ K theo quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Ông Q cũng yêu cầu được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vì tại thời điểm mở thừa kế, ông Q đã 68 tuổi, thương binh hạng 2/4, không có khả năng lao động. Ông N xác định phần trình bày của các nguyên đơn về quan hệ huyết thống là đúng; về nhà đất tranh chấp, năm 2004, cụ K đã lập di chúc để lại cho ông toàn bộ căn nhà này nên ông không đồng ý với yêu cầu được hưởng thừa kế di sản mà các nguyên đơn nêu ra.

Quá trình giải quyết, Tòa án đã nhận định: Xét yêu cầu của ông Q, bà M về việc được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tại Điều 140, Điều 145 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ. Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động còn có các quy định về chế độ đối với người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy, pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc tham gia quan hệ lao động tùy thuộc vào thể lực, trí lực và tinh thần của từng người. Do đó, độ tuổi lao động là cơ sở xác định người hết tuổi lao động để được hưởng các chế độ đãi ngộ chứ không phải là căn cứ để xác định một người không còn khả năng lao động. Hơn nữa, từ trước đến nay, ông Q, bà M có đời sống kinh tế độc lập, không phụ thuộc vào cụ K. Bà M có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước theo diện người có công với cách mạng, còn ông Q tuy là thương binh hạng 2/4, theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước, nên Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà M, ông Q về người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Trên cơ sở nhận định này, Tòa án đã không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà M và ông Q về việc được hưởng di sản của cụ K theo diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Theo tác giả, cách giải quyết của Tòa án với việc nhận định để xác định bà M và ông Q không thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như trên là chưa thuyết phục vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, Bộ luật Dân sự năm 2005 tại Điều 669 (hiện nay là Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015) quy định về đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Những người này được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc với kỷ phần thừa kế là “bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật” khi “không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”. Như vậy, pháp luật không có quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 669 Bộ luật Dân sự năm 2005 (nay là điểm b khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015) phải là người không có khả năng lao động tại thời điểm mở thừa kế, do đó, có thể hiểu rằng, một người thừa kế tại thời điểm mở thừa kế có khả năng lao động, nhưng tại thời điểm chia di sản họ bị mất khả năng lao động do tai nạn hoặc bệnh tật thì vẫn thuộc trường hợp là người không có khả năng lao động.

Thứ hai, trong ví dụ 2, bà M không chỉ nại rằng tại thời điểm mở thừa kế, bà đã 71 tuổi mà còn trình bày bà bị ngã vào năm 2006 và nằm liệt cho đến nay để xin hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Tòa án căn cứ vào quy định về độ tuổi của người lao động theo quy định của Bộ luật Lao động và căn cứ vào việc bà M hàng tháng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với người có công với cách mạng để bác yêu cầu của bà M là chưa hợp tình, hợp lý. Bởi quyền thừa kế khác với quyền hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước, không thể đánh đồng hai quyền này. Việc bà M được hưởng chế độ đãi ngộ là do bà có công với cách mạng, không liên quan gì đến việc bà có quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của bà M là do bà có quan hệ huyết thống với người lập di chúc nên thuộc diện được hưởng quyền này.

Quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là nhằm bảo vệ những người thân thích, gần gũi nhất của người chết khi họ không được cho hưởng di sản, giúp đỡ họ vơi bớt khó khăn trong cuộc sống. Người không có khả năng lao động là con của người lập di chúc là một trong số những người thuộc diện đó. Bà M không chỉ đã cao tuổi mà còn bệnh tật nằm liệt giường. Nếu chỉ căn cứ vào thời điểm mở thừa kế để xem xét khả năng lao động của một người nhằm gạt họ ra khỏi diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là vô tình đẩy họ vào con đường khó khăn mà chắc chắn nếu người lập di chúc còn sống cũng không muốn điều đó và khi đó thì quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn thể hiện được tính nhân văn của nó nữa.

3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án

Pháp luật không quy định thời điểm xác định người “không có khả năng lao động” để làm căn cứ cho hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là thời điểm nào. Do đó, việc áp dụng pháp luật cần đặt lợi ích của người đó lên trước để cân bằng quyền lợi giữa những người thừa kế.

Mặt khác, bản thân Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định con chưa thành niên được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, nhưng việc xác định con chưa thành niên tại thời điểm mở thừa kế hay tại thời điểm chia di sản thì Bộ luật Dân sự cũng chưa quy định. Nếu xác định độ tuổi của người chưa thành niên và khả năng lao động của người đã thành niên theo quy định tại Điều 644 nêu trên vào thời điểm mở thừa kế sẽ có những trường hợp không “hợp tình”. Chúng tôi đặt ra giả thiết như sau: Ông A có ba người con là B (sinh năm 1990, chưa có vợ con, công việc ổn định), C (sinh năm 1993, chưa có vợ con, công việc ổn định và D (sinh năm 1998, đang là sinh viên). Vợ ông A đã chết trong một tai nạn, cha mẹ của ông A đều đã chết. Năm 2017, ông A lập di chúc cho C hưởng toàn bộ di sản. Năm 2018, ông A bị bệnh chết. Năm 2019, B bị tai nạn giao thông bị bại liệt, mất khả năng lao động. Năm 2020, khi chia di sản thừa kế của ông A, cả D và B yêu cầu được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Tòa án xác định D thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên cho hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật theo Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, bác yêu cầu của B, vì tại thời điểm mở thừa kế, B có khả năng lao động, kinh tế ổn định. Vậy, chúng ta thấy rằng, cách giải quyết này vừa không hợp tình vừa không hợp lý. Không hợp tình vì lúc này, người cần bảo vệ hơn ai hết là B, không hợp lý vì Bộ luật Dân sự chỉ quy định: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản…” chứ không quy định: “Tại thời điểm mở thừa kế, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản …”.

Do đó, thiết nghĩ, cần có cách hiểu thống nhất về quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tác giả kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất quy định này theo hướng: Xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là con chưa thành niên hoặc con đã thành niên của người chết mà không có khả năng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời điểm xác định là thời điểm chia di sản mà không xác định vào thời điểm mở thừa kế.

Trong khi luật không có quy định cụ thể, chúng ta nên giải thích luật theo hướng có lợi nhất cho đương sự để bảo đảm hài hòa lợi ích cho các bên. Chính vì vậy, để khắc phục những bất cập nêu trên, thiết nghĩ, khi giải quyết tranh chấp thừa kế theo di chúc, nếu Tòa án quyết định chia di sản thừa kế theo di chúc thì cần xem xét có người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hay không để chia phần thừa kế này cho họ mới đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người thừa kế. Trường hợp Tòa án xác định có người thừa kế được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhưng họ đã được hưởng di sản theo pháp luật hoặc theo di chúc lớn hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật thì Tòa án phải lập luận trong bản án để giải thích cho họ hiểu vì sao người đó thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nhưng Tòa án không xem xét chia phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cho họ. Có như vậy, lập luận của Tòa án trong bản án mới có tính thuyết phục cao và đương sự cũng hiểu được quyền lợi của họ đã được bảo vệ trên cơ sở thượng tôn pháp luật.

ThS. Phan Thị Hồng
Trường Đại học Luật, Đại học Huế




Tài liệu tham khảo:

1. TS. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm