Thứ năm 12/06/2025 17:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Theo quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thì “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”; Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa…”. Có thể nhận thấy, quyền tự bào chữa là một trong những quyền cơ bản của con người, được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Theo đó, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (gọi chung là người bị buộc tội) có quyền tự bào chữa. Trong trường hợp những người này không tự bào chữa cho mình được thì có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Quyền tự bào chữa được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tố tụng, từ khi bị bắt, tạm giữ, tạm giam cho đến quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.


Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản pháp luật liên quan khác không có sự giải thích về việc tự bào chữa và quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, từ thực tiễn trong hoạt động TTHS, có thể hiểu, tự bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong TTHS. Quyền tự bào chữa là quyền của người bị buộc tội được Hiến pháp và pháp luật về TTHS quy định, trong đó, người bị buộc tội được dùng lý lẽ, chứng cứ để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển, quyền tự bào chữa trong TTHS được pháp luật quy định rất cụ thể, rõ ràng và được thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội. Quyền tự bào chữa được xác lập trong toàn bộ quá trình tố tụng. Người dân có thể sử dụng quyền tự bào chữa, quyền nhờ người bào chữa hoặc có thể sử dụng đồng thời cả hai quyền này. Do đó, quyền lợi của người bị buộc tội trong hoạt động TTHS được bảo đảm khá triệt để trong thực tiễn.

Trong xu hướng hiện nay ở nước ta, kinh tế xã hội ngày càng phát triển, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, việc thực hiện quyền tự bào chữa đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, trong thực tiễn, quyền tự bào chữa hầu như không được thực hiện. Nói cách khác, các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa chưa thực sự đi vào đời sống xã hội. Từ thực tiễn ở nước ta hiện nay, có thể nhận thấy một số hạn chế, bất cập và khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS như sau:

Một là, các quy định pháp luật hiện hành về quyền tự bào chữa trong TTHS còn chung chung, khái quát, chưa cụ thể, rõ ràng

Trong Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều quy định quyền tự bào chữa là một trong những quyền cơ bản của con người. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, người bị buộc tội đều được giải thích về các quyền do pháp luật quy định, trong đó có quyền tự bào chữa. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể thế nào là quyền tự bào chữa, tức là chưa quy định cụ thể về nội hàm của quyền tự bào chữa và việc tự bào chữa. Điều này dẫn đến thực trạng hiện nay là người bị buộc tội muốn thực hiện quyền tự bào chữa nhưng không biết được làm những gì trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Đây rõ ràng là những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được quy định hoặc hướng dẫn cụ thể, chi tiết.

Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có sự tách biệt trong việc quy định giữa người tự bào chữa và người bào chữa

Chương 5 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (từ Điều 72 đến Điều 84) quy định cụ thể về việc bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo đó, Bộ luật quy định cụ thể về người bào chữa; quyền và nghĩa vụ của người bào chữa; thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng; lựa chọn người bào chữa; chỉ định người bào chữa; thay đổi hoặc từ chối người bào chữa; thủ tục đăng ký bào chữa; trách nhiệm thông báo cho người bào chữa; gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam; thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án… Tuy nhiên, Bộ luật không có các quy định tương tự về người tự bào chữa.

Việc không tách biệt giữa người bào chữa và người tự bào chữa như quy định pháp luật hiện hành sẽ dẫn đến cách hiểu người tự bào chữa chính là người bào chữa. Trong trường hợp này, người tự bào chữa được hưởng quyền, nghĩa vụ và thực hiện những công việc như người bào chữa. Tuy nhiên, điều này là không hợp lý trong thực tế, bởi lẽ, người tự bào chữa và người bào chữa trong vụ án hình sự về bản chất là khác nhau, quyền, nghĩa vụ của người bào chữa vàngười tự bào chữa cũng khác nhau.

Ba là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có sự phân biệt giữa người bị buộc tội với người tự bào chữa

Khác với trường hợp nhờ người bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, người tự bào chữa vừa là người bị buộc tội trong vụ án, vừa là người bào chữa cho mình, tức là, một người đóng hai vai trò khác nhau. Với vai trò là người bị buộc tội trong vụ án, người bị buộc tội có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, có quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật. Với vai trò là người tự bào chữa trong vụ án, người tự bào chữa được hưởng quyền và nghĩa vụ của việc bào chữa theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có các quy định để phân biệt giữa người bị buộc tội với người tự bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa. Chúng ta có thể thấy điều này trong một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tranh tụng như sau:

Tại khoản 3 Điều 309 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”; Điều 310 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”; khoản 2 Điều 311 quy định: “Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo”... Điều này cho thấy, các quy định nêu trên chưa có sự phân biệt giữa bị cáo với người tự bào chữa. Trong các trường hợp này, nếu bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa thì rõ ràng quyền tranh tụng của bị cáo có sự hạn chế nhất định.

Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có quy định cụ thể đối với trường hợp người tự bào chữa thực hiện quyền thay đổi vai trò bào chữa trong quá trình tố tụng

Trên thực tế, có những trường hợp, người bị buộc tội nhờ người bào chữa cho mình nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, người bị buộc tội muốn thay đổi, tự mình thực hiện việc bào chữa. Hoặc trường hợp ngược lại, ban đầu, người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, người bị buộc tội muốn nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình. Bên cạnh đó, có những trường hợp, người bị buộc tội muốn sử dụng đồng thời quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể hoặc hướng dẫn về việc thực hiện những quyền này, do đó, trên thực tế, người bị buộc tội không biết thực hiện những quyền này như thế nào.

Năm là, thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS còn có những khó khăn, vướng mắc

Như đã đề cập ở trên, quyền tự bào chữa trong TTHS là quyền cơ bản được Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền này hầu như chưa được thực hiện trên thực tế. Điều đó cho thấy không chỉ có những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật hiện hành mà còn có những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS.

Xét về phía người bị buộc tội, có thể nhận thấy, khi một người muốn thực hiện quyền tự bào chữa thì bản thân họ không biết thực hiện quyền này như thế nào, đâu là giới hạn của nó. Việc thực hiện quyền tự bào chữa có được bảo đảm một cách triệt để và có cơ chế bảo vệ cho việc thực hiện quyền đó hay không. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, người bị buộc tội hoàn toàn có thể tự bào chữa cho mình và không cần nhờ người khác bào chữa. Thậm chí, một số trường hợp, việc tự bào chữa của người bị buộc tội có thể mang lại hiệu quả nhiều hơn so với việc nhờ người bào chữa. Điều này cho thấy, tính hiệu quả trong thực tế đối với quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS chưa đạt được.

Xét về phía cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), các cơ quan THTT cũng rất lúng túng khi người bị buộc tội yêu cầu thực hiện quyền tự bào chữa. Thực tế cho thấy, các cơ quan THTT gặp khó khăn ngay từ giai đoạn giải thích pháp luật và hướng dẫn về việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Điều này xuất phát từ các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa hiện nay chưa cụ thể, chi tiết, đặc biệt, hiện chưa có cơ chế thực thi và kiểm sát, giám sát đối với việc thực hiện quyền tự bào chữa. Do vậy, việc phổ biến rộng rãi và tạo điều kiện để quyền tự bào chữa phát huy hiệu quả trong thực tiễn còn có nhiều hạn chế.

Từ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn hiện nay, tác giả xin nêu một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, đồng thời, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS, trong đó tập trung giải quyết một số nội dung sau:

(i) Quy định cụ thể thế nào là quyền tự bào chữa và nội dung cụ thể của việc tự bào chữa trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng, trong đó, cần quy định rõ phạm vi, giới hạn của quyền tự bào chữa, cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền tự bào chữa trong thực tiễn.

(ii) Cần có các quy định cụ thể về người tự bào chữa, để phân biệt với người bào chữa nói chung, tức là, cần quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và những việc người tự bào chữa được thực hiện trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng.

(iii) Cần có các quy định phân biệt người bị buộc tội và người tự bào chữa trong vụ án hình sự. Trong trường hợp người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa, người bị buộc tội vừa có quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội nhưng đồng thời có quyền, nghĩa vụ của người tự bào chữa và quyền, nghĩa này bình đẳng trước pháp luật.

(iv) Quy định cụ thể đối với trường hợp người tự bào chữa thực hiện quyền thay đổi vai trò bào chữa trong quá trình tố tụng. Theo đó, trong quá trình tố tụng, người tự bào chữa có thể thay đổi vai trò bào chữa bằng cách nhờ người bào chữa cho mình, chấm dứt vai trò của người bào chữa để tự mình bào chữa hoặc sử dụng đồng thời quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa ở bất cứ giai đoạn nào.

(v) Cần có cơ chế thực thi cho việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Các cơ quan THTT cần giải thích, hướng dẫn cụ thể về quyền tự bào chữa và việc thực hiện quyền tự bào chữa cho người bị buộc tội, khuyến khích, tạo điều kiện để người bị buộc tội có thể thực hiện quyền tự bào chữa một cách dễ dàng nhất.

(vi) Cần có các quy định về kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Theo đó, việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS phải được giám sát chặt chẽ trong khuôn khổ pháp luật. Người bị buộc tội có thể thực hiện quyền tự bào chữa một cách đầy đủ và toàn diện nhất trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh đó, các cơ quan THTT thực hiện theo đúng thủ tục, trình tự được pháp luật quy định, một mặt, cho phép người bị buộc tội thực hiện quyền tự bào chữa theo quy định pháp luật, mặt khác, không để xảy ra tình trạng hạn chế quyền hoặc mở rộng quyền trong thực tế.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS:

(i) Các cơ quan, tổ chức, cá nhân cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS để tất cả người dân đều hiểu và nhận thức sâu rộng về quyền này.

(ii) Trong quá trình tố tụng, các cơ quan THTT cần đẩy mạnh việc giải thích, hướng dẫn để người bị buộc tội có thể dễ dàng tiếp cận và thực hiện được quyền tự bào chữa của mình có hiệu quả trên thực tế.

(iii) Cần có sự công khai, minh bạch trong việc thực hiện quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS.

(iv) Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm về việc thực hiện quyền tự bào chữa trong TTHS. Theo đó, những hành vi như lạm quyền, lợi dụng quyền tự bào chữa để vi phạm pháp luật của người bị buộc tội hoặc những hành vi như hạn chế quyền, mở rộng quyền từ phía cơ quan THTT cần được xử lý nghiêm trên thực tế.

Như vậy, quyền tự bào chữa trong TTHS là quyền cơ bản của con người được Hiến pháp và pháp luật về TTHS ghi nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định về quyền tự bào chữa trong TTHS ở nước ta chưa thực sự đi vào đời sống xã hội. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó, có những hạn chế, bất cập về các quy định pháp luật hiện hành và có những vướng mắc, khó khăn từ thực tiễn thực hiện pháp luật. Việc thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tự bào chữa trong TTHS, đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quyền tự bào chữa trong thực tiễn TTHS ở nước ta hiện nay.

TS. Nguyễn Tuấn An

Sở Tư pháp Vĩnh Phúc

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm