Thứ tư 18/06/2025 12:11
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sơ lược hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam trong quá trình tiếp cận lý thuyết vật quyền

Bài viết đánh giá tổng quát về hệ thống pháp luật Việt Nam trong quá trình tiếp cận lý thuyết vật quyền, từ đó rút ra kinh nghiệm cũng như có cơ sở để xác định mục tiêu, định hướng mang tính chiến lược cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự trong giai đoạn mới.


1. Về chế định vật quyền

Chế định vật quyền có nguồn gốc từ luật học La Mã, cho tới nay vật quyền đã là một khái niệm nền tảng, cơ bản và ổn định không chỉ trong khoa học pháp lý mà còn trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự ở nhiều nước trên thế giới[1]. Với chế định vật quyền, Nhà nước bằng quy định của pháp luật bảo đảm cho người (cá nhân, pháp nhân) có vật (chủ sở hữu) có toàn quyền tác động trực tiếp lên vật theo ý chí và yêu cầu của mình, đồng thời, có quyền không cho phép người khác tiếp cận cũng như quản lý, khai thác, sử dụng tài sản đó hoặc thực hiện các hành vi làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện quyền của mình. Chế định vật quyền cũng cho phép người không phải là chủ sở hữu cũng có thể có quyền trên vật (tài sản) của người khác trong các trường hợp luật định[2].

Tại Việt Nam, lý thuyết về vật quyền đã được hoàn thiện qua thời gian và tiếp tục được vận dụng vào pháp luật dân sự hiện đại. Mặc dù không sử dụng trực tiếp thuật ngữ vật quyền nhưng các quy định đã thể hiện rõ các yếu tố của vật quyền, có nội hàm gần như tương đồng với các khái niệm cùng tên hoặc chỉ những quan hệ có cùng tính chất trong luật của các nước châu Âu[3].

Thực tiễn cho thấy, việc ghi nhận các nguyên tắc của vật quyền có ý nghĩa thiết thực trước yêu cầu phải khai thác tiết kiệm và hiệu quả mọi tài sản trong xã hội cũng như góp phần giúp hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam hội nhập hơn với pháp luật dân sự quốc tế[4]. Tuy nhiên, lý thuyết vật quyền dù đã được vận dụng nhưng còn chưa triệt để, vẫn còn đó những khiếm khuyết của hệ thống pháp luật như tính thiếu đồng bộ, thiếu ổn định và tính khả thi chưa cao. Vì vậy, để xác định được những mục tiêu, định hướng mang tính chiến lược cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự trong giai đoạn mới, yêu cầu đặt ra là cần có những đánh giá tổng quát về hệ thống pháp luật dân sự trong quá trình tiếp cận lý thuyết vật quyền từ trước tới nay.

2. Lý thuyết vật quyền ở nước ta qua các thời kỳ

Nhìn lại quá trình phát triển hệ thống pháp luật dân sự của nước ta, có thể thấy, lý thuyết vật quyền đã manh nha, gợi mở ngay từ những văn bản pháp luật thời kỳ phong kiến và ngày càng được hoàn thiện dần qua các thời kỳ lịch sử. Mỗi thời kỳ lại đánh dấu sự phát triển của hệ thống pháp luật, phù hợp với những tư tưởng chính trị - pháp lý mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. Có thể khái quát thành các thời kỳ như sau: Thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), thời kỳ 1945 – 1975, thời kỳ từ năm 1975 đến nay và hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể:

2.1. Thời kỳ phong kiến

Tính chất bền vững của chế độ công xã và chế độ chiếm hữu nô lệ làm cho chế độ phong kiến hình thành và phát triển rất chậm chạp. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời chậm chạp của pháp luật phong kiến. Trong một thời gian dài, Nhà nước phong kiến vẫn duy trì pháp luật với hình thức chủ yếu là tập quán pháp và mệnh lệnh của vua, cùng với luật lệ riêng ở mỗi vùng lãnh thổ của đất nước, phù hợp với lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến[5]. Vì vậy, pháp luật trong thời kỳ này mới chỉ có những quy định có tính chất manh nha, gợi mở và có chút ít liên quan đến một vài vật quyền như quyền sở hữu tài sản, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền cầm cố, thế chấp tài sản, các quyền này đồng thời cũng chịu ảnh hưởng nhiều của pháp luật Trung Quốc phong kiến[6]. Pháp luật tại thời kỳ trước Hậu Lê (thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần Hồ) và thời Hậu Lê cũng như thời kỳ nhà Nguyễn đều có những đặc trưng riêng, nhưng nhìn chung thể nhận thấy, chế độ pháp lý về quyền đối với tài sản trong luật Việt Nam thời kỳ này mặc dù còn khá “nghèo nàn” nhưng ý niệm về vật quyền đã được đề cập đến dưới dạng quyền sở hữu, các vật quyền khác như quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, thậm chí cầm cố, thế chấp. Bên cạnh đó, so với pháp luật Trung Quốc phong kiến, luật Việt Nam thời kỳ phong kiến cũng đã có những dấu ấn riêng, ví dụ, Quốc triều Hình luật tại Quyển thứ ba có chương riêng về điền sản, về “thủy tăng điền sản”[7], đây là một trong những nội dung được xem là là có “tư duy pháp lý hiện đại” của Bộ luật này mà luật nhà Đường (Trung Quốc) chưa quy định. Đồng thời, với việc ghi nhận địa dịch liên quan đến lấy nước, giữ nước, dẫn, thoát nước cũng cho thấy sự “thích ứng kịp thời” của nhà làm luật thời kỳ này trước yêu cầu từ thực tế về bảo vệ công việc cày cấy, hiệu quả của sản xuất trong nền nông nghiệp trồng lúa nước[8].

2.2. Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945)

Pháp luật thời kỳ này chịu ảnh hưởng từ quan niệm về vật quyền của pháp luật dân sự Pháp[9], các quan hệ dân sự trong xã hội đã có sự tiến bộ, phát triển và mở rộng hơn so với thời kỳ Nhà nước phong kiến. Trong thời kỳ này, Việt Nam bị chia ra làm ba xứ[10], người Pháp xây dựng và áp dụng ở mỗi xứ một bộ dân luật riêng: Dân luật Giản yếu Nam kỳ năm 1883, Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật năm 1936. Trong đó, bộ Dân luật Bắc kỳ 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật 1936 về cơ bản “sao chép” gần như toàn bộ các điều khoản của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 với lý thuyết pháp lý của pháp luật châu Âu lục địa về quyền tài sản và những khái niệm vốn chưa được biết đến trước đây ở Việt Nam như động sản, bất động sản, khế ước, vật quyền, địa dịch… Vì vậy, thời kỳ này các quyền tài sản có nội dung đặc trưng như sau:

- Về tài sản, pháp luật không còn chỉ tập trung vào ruộng đất như trước kia mà đã có sự phân loại rõ ràng tài sản thành động sản và bất động sản, đồng thời làm rõ mối liên hệ của việc phân loại tài sản này với các quyền tài sản[11], theo đó, bất động sản được phân loại theo tính chất, theo mục đích sử dụng, theo đối tượng mà quyền tác động, sử dụng thủ pháp loại trừ để chỉ ra các tài sản là động sản với các tiêu chí: Tính chất của tài sản và pháp luật quy định[12]. Trên cơ sở đó, vật quyền - quyền đối vật được quy định thành vật quyền có đối tượng là bất động sản (như quyền sở hữu, quyền dụng ích, quyền cư dụng, quyền thuê dài hạn, quyền địa dịch, quyền cầm thế, quyền để đương, tố quyền đòi lại bất động sản)[13] và vật quyền có đối tượng là động sản[14]. Quyền sở hữu trí tuệ bước đầu cũng được ghi nhận là một loại quyền tài sản dưới dạng thức “quyền sở hữu thuộc về sách vở, mỹ thuật, công nghệ”[15] hoặc “những quyền nghiệp chủ thuộc về văn tự, mỹ thuật và kỹ nghệ”[16].

- Về quyền sở hữu, quyền này được xác định là vật quyền chính đầy đủ, tuyệt đối nhất. Chủ sở hữu được hưởng dụng và sử dụng tài sản thuộc quyền một cách tuyệt đối, kể cả việc tự do bán, tặng cho, tiêu hủy tài sản… miễn là không vi phạm vào những điều luật cấm[17]. Đồng thời, chủ sở hữu được hưởng tất cả những vật của tài sản sinh ra và phụ thuộc theo nó, hoặc tự nhiên mà có hoặc do tự mình làm ra (pháp luật gọi là quyền phụ thiêm)[18]... Bên cạnh đó, chủ sở hữu cũng phải tuân thủ cơ chế pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu với người chiếm hữu, người thứ ba khác liên quan đến thực hiện quyền phụ thiêm[19].

- Về quyền khác đối với tài sản (vật quyền khác), pháp luật đã ghi nhận khá cụ thể các quy định về quyền hưởng dụng, quyền địa dịch[20], quyền thuê dài hạn[21], quyền cầm cố[22], thế chấp[23]. Trong đó, quyền thuê dài hạn, quyền cầm cố, thế chấp có thể coi là lần đầu tiên được nội luật hóa một cách khá rõ ràng trong luật so với các giai đoạn trước. Quyền thuê dài hạn đã có một bước tiến vượt bậc khi vừa được quy định cụ thể trong văn bản pháp luật, vừa được coi là một vật quyền, trong khi ngay cả Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 cũng chưa quy định rõ ràng về quyền này. Ngoài ra, quyền hành dụng và quyền cư dụng là nội hàm của quyền hưởng dụng đã được quy định (với tên gọi quyền hưởng dụng thu lợi, quyền dùng vật người khác, quyền ở nhà người khác)[24].

Như vậy, so với luật thời kỳ phong kiến, chế độ pháp lý về quyền đối với tài sản trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc đã có những bước phát triển vượt bậc cả về khái niệm, tư duy pháp lý và kỹ thuật lập pháp. Sự phát triển này phần lớn là kết quả của việc du nhập, “sao chép khá trọn vẹn” kỹ thuật lập pháp của châu Âu lục địa, nhất là của Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804.

2.3. Thời kỳ 1945 - 1975

Thời kỳ này Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai hệ thống chính trị, pháp lý khác nhau và vấn đề áp dụng lý thuyết vật quyền tại văn bản pháp luật cũng khác nhau tại mỗi miền.

- Ở miền Bắc vẫn tiếp tục sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc - Trung - Nam của giai đoạn trước[25] và một số sắc lệnh liên quan đến quyền đối với tài sản[26].

- Ở miền Nam, chế độ pháp lý về quyền đối với tài sản, nhất là trong Bộ Dân luật năm 1972 về cơ bản vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư duy pháp lý của Bộ luật Dân sự Pháp như: Quyền tài sản được phân chia theo lý thuyết quyền đối vật và quyền đối nhân; vật quyền được chia thành vật quyền bất động sản và vật quyền động sản[27] vật quyền chính[28] và vật quyền phụ[29] ghi nhận quyền sở hữu trí tuệ với tên gọi “quyền sở hữu văn chương, mỹ thuật hay kỹ nghệ”[30]… Tuy nhiên, so với pháp luật thời kỳ Pháp thuộc thì Bộ Dân luật năm 1972 quy định về chế độ pháp lý này với kỹ thuật lập pháp hiện đại, rõ ràng, đầy đủ và dễ hiểu hơn.

Đây cũng là thời kỳ Hiến pháp năm 1959 được ban hành, điều chỉnh các quyền đối với tài sản theo hướng xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thực hiện công hữu hóa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thực hiện quản lý kinh tế bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp[31].

2.4. Thời kỳ từ năm 1975 đến nay

Sau khi thống nhất đất nước, Hiến pháp năm 1980 được ban hành nhưng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tiếp tục được khẳng định, quyền sở hữu tư nhân ít được coi trọng.

Công cuộc đổi mới được khởi xướng năm 1986 đã tạo ra sự thuận lợi cơ bản hơn về tư duy pháp lý trong xây dựng và điều chỉnh các quan hệ dân sự. Giai đoạn này có nhiều văn bản pháp luật được ban hành như Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, Pháp lệnh Nhà ở năm 1991… tuy nhiên, mối quan hệ về tài sản mới bước đầu được ghi nhận ở góc độ riêng lẻ, chế định về vật quyền cũng ít được nhắc đến, cơ bản mới ghi nhận khá chung chung[32].

Đến Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên các hình thức sở hữu đã được ghi nhận cụ thể và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân[33]. Trong bối cảnh đó, Bộ luật Dân sự năm 1995 được thông qua là công trình pháp điển hóa đầu tiên tạo hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ dân sự và được hoàn thiện dần, thể hiện sự ghi nhận chế định vật quyền ngày càng rõ ràng qua các lần sửa đổi năm 2005, 2015, cụ thể:

- Bộ luật Dân sự năm 1995: Mặc dù chưa có quy định về chế định vật quyền trong một chương mục riêng nhưng Bộ luật đã ghi nhận được một số vật quyền chính và lần đầu tiên ghi nhận khái niệm quyền sở hữu có nội hàm gồm 03 quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản[34]. Đồng thời, ghi nhận một số nguyên tắc mới về quyền sở hữu và tài sản. Tuy nhiên, các quyền của người không phải là chủ sở hữu chưa được chú trọng, có những quy định không rõ ràng hoặc không đầy đủ, quy định quá chung.

- Bộ luật Dân sự năm 2005: Bộ luật đã hoàn thiện thêm một bước các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu, ghi nhận cụ thể các quyền như: Quyền sử dụng đất[35], quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề[36], quyền về lối đi qua bất động sản liền kề[37]; với tư cách là các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản[38]...

Tuy nhiên các quy định về vật quyền khác còn rất mờ nhạt, chưa có sự tách biệt giữa chiếm hữu là tình trạng pháp lý và chiếm hữu là một quyền của chủ sở hữu và người không phải là chủ sở hữu. Chưa thể hiện được một cách đầy đủ các đặc tính của vật quyền như nguyên tắc luật định (numerus clausus), đặc tính tuyệt đối hay quyền chống lại mọi chủ thể khác (erga omnes)… Bên cạnh đó, Bộ luật cũng không chỉ ra được mối quan hệ giữa quyền sở hữu với các quyền khác đối với tài sản, với quyền của bên nhận cầm cố, nhận thế chấp và cũng chưa chỉ ra thứ tự ưu tiên giữa các vật quyền này với nhau. Vì thế, việc thừa nhận một số quyền của người không phải là chủ sở hữu còn mang tính rời rạc.

- Bộ luật Dân sự năm 2015: Trên cơ sở kế thừa các quy định về vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có cấu trúc cũng như nội dung rõ ràng và logic hơn so với Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005, dành một phần quan trọng (Phần thứ hai trong Bộ luật) để quy định về chế định vật quyền, đồng thời cụ thể hóa các quan điểm, tư tưởng mới về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Hiến pháp 2013 như: Tư tưởng về đa dạng sở hữu, tự do hợp đồng, bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.

Chỉ rõ bên cạnh quyền sở hữu còn tồn tại các vật quyền khác là phân nhánh của quyền sở hữu hay còn được xem là các vật quyền hạn chế, bao gồm: Quyền đối với bất động sản liền kề (quyền địa dịch), quyền hưởng dụng, quyền bề mặt và các vật quyền bảo đảm (vật quyền phụ thuộc). Đây là điều mà Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa đạt được. Có thể nói đây là một bước tiến lớn của Bộ luật Dân sự năm 2015, tiến đến tiếp cận với lý thuyết vật quyền khi ghi nhận sự chiếm hữu là một tình trạng thực tế (song song với quyền chiếm hữu đã quy định trong quyền sở hữu như ở các Bộ luật Dân sự trước).

Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận quyền theo đuổi và quyền ưu tiên của vật quyền bảo đảm; ghi nhận thêm hai biện pháp bảo đảm (cầm giữ và bảo lưu quyền sở hữu), ghi nhận đăng ký bảo đảm là quyền chứ không phải nghĩa vụ… Đồng thời, ghi nhận rõ hiệu lực tuyệt đối của vật quyền, quyền được tác động trực tiếp lên đối tượng của chủ sở hữu cũng như nguyên tắc công khai[39] là nguyên tắc cơ bản và khẳng định quyền của chủ thể nắm các quyền khác đối với tài sản[40].

3. Mục tiêu, định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam trong thời gian tới

Có thể thấy, lý thuyết vật quyền đã được tiếp cận và hoàn thiện dần qua các thời kỳ và ngày càng thể hiện rõ ràng, đầy đủ hơn trong hệ thống pháp luật dân sự, mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự, bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu và cả người không phải là chủ sở hữu. Vì vậy, mặc dù trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta mà gần đây nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không sử dụng trực tiếp thuật ngữ vật quyền nhưng không thể phủ nhận rằng, để khuyến khích, mở rộng các giao dịch dân sự, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, thì trong thời gian tới, Bộ luật Dân sự một mặt cần phải minh định rõ ràng hơn các loại quyền tài sản; một mặt cần ghi nhận, xác lập và bảo vệ các quyền đối với tài sản đang hiện hữu trong đời sống xã hội. Đồng thời, để bảo đảm sự thống nhất trong áp dụng lý thuyết vật quyền tại Bộ luật Dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan cần tiến hành rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019), Luật Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Công chứng năm 2014… để tiến hành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cho phù hợp với cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 2015 về vật quyền cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa rõ ràng hoặc có cách hiểu khác nhau.

Lưu Thị Phấn

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp


[1] Từ các nước có nền kinh tế thị trường phát triển (Pháp, Đức, Nhật, Thụy Sĩ...) đến các nước trong khu vực (Thái Lan, Campuchia, Phi-líp-pin,...) và các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Trung Quốc, Liên bang Nga...). Ngay từ Bộ luật Napoléon (1804) - Bộ luật Dân sự đầu tiên trên thế giới thì phần thứ hai đã là vật quyền (quyền trên vật).

[2] Báo cáo số 508/BC-CP ngày 24/11/2014 về dự kiến bước đầu tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi).

[3] Ví dụ: Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận một số điểm cơ bản của lý thuyết vật quyền theo hướng: Về mặt từ ngữ, sử dụng cụm từ “quyền khác đối với tài sản”; về mặt nội hàm, ghi nhận các quyền mới là quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, mở rộng và quy định cụ thể hơn nữa quyền đối với bất động sản liền kề (địa dịch)…

[4] TS. Nguyễn Hồng Hải, Chuyên đề Bình luận Phần thứ hai. Những quy định chung, Đề tài khoa học cấp Bộ “Bình luận Khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015”.

[5] Xem: http://luatviet.co/phap-luat-phong-kien/n20170524045758443.html.

[6] TS. Nguyễn Minh Oanh, “Vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại”, Nxb. Công an nhân dân, 2018, tr.69.

[7] Tại Chương mới tăng thêm về điền sản

[8] Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam lược khảo. Sài Gòn. 1970, tr.168

[9] Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 (còn được gọi là Bộ luật Dân sự Napoleon 1804) đã kế thừa nhiều chế định từ Luật La Mã trong đó có chế định về quyền sở hữu tài sản. Theo phân loại vật quyền của pháp luật Pháp, vật quyền chính gồm 05 quyền: Quyền sở hữu, quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch, quyền thuê dài hạn.

[10] Bao gồm: Nam kỳ (xứ thuộc địa), Trung kỳ (xứ bảo hộ) và Bắc kỳ (xứ nửa bảo hộ).

[11] Điều 453, Điều 464, Điều 469 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật

[12] Các điều 450, 452, 453, 454 Dân luật Bắc kỳ; các điều 461, 462, 464, 466, 469 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[13] Điều 453 Dân luật Bắc kỳ, Điều 464 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[14] Khoản 1 Điều 455 Dân luật Bắc kỳ, khoản 1 Điều 469 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[15] Khoản 6 Điều 455 Dân luật Bắc kỳ.

[16] Khoản 6 Điều 469 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[17] Điều 459, Điều 462 - Điều 464 Dân luật Bắc kỳ, Điều 476 - Điều 478 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[18] Điều 465 Dân luật Bắc kỳ, Điều 479 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[19] Điều 466 - Điều 480 Dân luật Bắc kỳ, Điều 480 - Điều 497 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[20] Điều 602 Dân luật Bắc kỳ và Điều 629 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật: Địa dịch là sự phiền lụy của một bất động sản (bất động sản hưởng địa dịch) đối với một bất động sản khác (bất động sản chịu địa dịch).

[21] Điều 616 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật quy định rằng: Sự thuê dài hạn là sự hưởng dụng nhà đất của người khác, chiếu theo khế tự lập ra có kỳ hạn, ngắn nhất là mười tám năm, dài nhất là chín mươi chín năm. Sự cho thuê dài hạn được coi là một vật quyền có thể tịch biên theo cách thức định về việc tịch biên bất động sản.

[22] Điều 1512 đến Điều 1526 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[23]Điều 1527 đến Điều 1559) Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật.

[24] Nguyễn Hồng Hải - Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp, “Vài nét về quyền hưởng dụng trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Vietnam Law and Legal Forum, No 273/May 2017.

[25] Bao gồm Dân sự Giản yếu Nam kỳ năm 1883, bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 và Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật năm 1936.

[26] Như: Sắc lệnh số 56B/SL ngày 2/5/1946 tạm hoãn thời hạn những việc đǎng ký quyền cầm cố ở các phòng trước bạ và điền thổ trên toàn cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 90/SL ngày 30/5/1946, ấn định những khu mỏ thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Sắc lệnh số 25/SL ngày 13/2/1950, quy định về ruộng đất vắng chủ…

[27] Điều 369 và Điều 372 Bộ Dân luật năm 1972.

[28] Quyền sở hữu, quyền dụng ích, quyền cư ngụ và quyền hành dụng, quyền thuê mướn trường kỳ, quyền địa dịch.

[29] Quyền thế chấp và quyền để đương.

[30] Điều 372 Bộ Dân luật năm 1972.

[31] Một số vấn đề về Dự thảo Bộ luật Dân sự chuẩn bị trình Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 xem xét, thông qua. Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Số chuyên đề về Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội, tháng 11/1995. tr.212.

[32] TS. Nguyễn Minh Oanh, “Vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại”, Nxb. Công an nhân dân, 2018, tr.81.

[33] Điều 58 Hiến pháp năm 1992.

[34] Điều 173 Bộ luật Dân sự năm 1995.

[35] Điểm khoản 2 Điều 172 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[36] Điều 274 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[37] Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[38] Điều 173 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[39] Nguyên tắc này nhằm bảo đảm tất cả mọi chủ thể đều có thể biết đến sự tồn tại của vật quyền cũng như sự dịch chuyển của nó, thông qua quy định buộc người nắm vật quyền có đối tượng là bất động sản phải đăng ký (Điều 106 Bộ luật Dân sự năm 2015) và quy định đòi hỏi người nắm vật quyền đối với động sản phải chiếm hữu thực tế tài sản (khoản 2 Điều 310 Bộ luật Dân sự năm 2015).

[40] Khoản 1 Điều 159 Bộ luật Dân sự năm 2015 quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác”.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm