Thứ sáu 06/06/2025 16:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn áp dụng các báo cáo đã được thông qua của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm tại WTO và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Báo cáo của Ban hội thẩm (Panel) và Cơ quan phúc thẩm (AB) là kết quả của hai giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.

1. Khái quát về báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong khuôn khổ WTO
Báo cáo của Ban hội thẩm (Panel) và Cơ quan phúc thẩm (AB) là kết quả của hai giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO chủ yếu được quy định trong Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (DSU). Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) không phải là một cơ quan giải quyết tranh chấp độc lập mà chính là Đại hội đồng - một cơ quan thường trực của WTO (khoản 3 Điều IV Hiệp định thành lập WTO).

Trong trình tự, thủ tục tại DSB, sau khi tham vấn không đạt được kết quả, tranh chấp sẽ lần lượt được giải quyết tại Ban hội thẩm và tại Cơ quan phúc thẩm. Kết quả làm việc tại Ban hội thẩm là một báo cáo, được gửi cho các bên tranh chấp và tất cả thành viên WTO. Nếu báo cáo này không bị kháng cáo và DSB thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết (khoản 4 Điều 16 DSU), thì báo cáo này trở thành “khuyến nghị và phán quyết” của DSB.

Nếu báo cáo của Ban hội thẩm bị kháng cáo, một Cơ quan phúc thẩm gồm 03 thành viên sẽ được thành lập để xem xét kháng cáo. Kết quả làm việc của Cơ quan phúc thẩm cũng là một báo cáo. Báo cáo này cũng sẽ được xem xét để DSB thông qua. Sau khi DSB thông qua, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trở thành “khuyến nghị và phán quyết” của DSB.

Tính đến tháng 8/2019, đã có 586 tranh chấp được đưa ra giải quyết theo thủ tục tại DSB[1]. Với số lượng tranh chấp này, các báo của Ban hội thẩm và tại Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua trở thành một nguồn quan trọng trong hệ thống nguồn của luật thương mại quốc tế[2]. Tuy nhiên, các báo cáo của tại Ban hội thẩm và tại Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua có giá trị pháp lý đối với các tranh chấp xảy ra sau như thế nào, vẫn là một vấn đề còn nhiều tranh luận.

2. Những tranh luận về giá trị pháp lý của các báo cáo của Ban hội thẩm và tại Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua

Giá trị pháp lý của các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua chỉ được quy định trực tiếp tại khoản 2 Điều 3 DSU. Theo đó, các báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm được DSB thông qua sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc các bên trong tranh chấp cụ thể và không làm tăng thêm hoặc giảm bớt quyền và nghĩa vụ quy định trong các hiệp định liên quan. Ngoài ra, không có quy định nào khác của DSU quy định về việc liệu các báo cáo này có hay không có giá trị pháp lý ràng buộc các Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm trong các vụ việc sau.

Theo đó, các phán quyết trước của DSB không có giá trị ràng buộc với Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong các tranh chấp tiếp theo. Điều này có nghĩa là một Ban hội thẩm cũng không bắt buộc phải tuân theo các báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trước đó, ngay cả khi Cơ quan phúc thẩm đã phát triển một cách giải thích nhất định về chính xác các điều khoản hiện đang có vấn đề trước Ban hội thẩm. Cơ quan phúc thẩm cũng không bắt buộc phải duy trì các diễn giải pháp lý mà nó đã phát triển trong các tranh chấp trước đó[3].

Ngược lại, thực tế giải quyết tranh chấp tại WTO cho thấy, nếu lập luận được đưa ra trong báo cáo trước đó có thể hỗ trợ cho việc giải thích quy định của WTO, có sức thuyết phục đối với Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm trong tranh chấp xảy ra sau đó, thì rất có khả năng Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm sẽ lặp lại và thực hiện theo báo cáo trước. Điều này cũng phù hợp với mục tiêu chính của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là tạo ra sự an toàn và khả năng dự đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương (khoản 2 Điều 3 của DSU). Báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm tạo ra những kỳ vọng hợp pháp cho các thành viên WTO, và do đó, nên được tính đến khi chúng có liên quan đến bất kỳ tranh chấp nào[4].

3. Áp dụng các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã được thông qua tại WTO trong một số tranh chấp cụ thể

Về hình thức, trong các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm thường xuyên có phần trích dẫn trược tiếp hoặc gián tiếp nội dung cụ thể của các báo cáo đã được thông qua trước đó. Thậm chí, trong nhiều báo cáo còn có bảng thống kê các vụ tranh chấp được viện dẫn.

Về nội dung, thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO cho thấy, báo cáo đã được thông qua của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm được áp dụng theo hai cách thức: (i) Một là, báo cáo trước đó được viện dẫn nhằm bổ trợ cho lập luận của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm; (ii) Hai là, báo cáo trước đó được viện dẫn để Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm áp dụng theo.

3.1. Báo cáo trước đó được viện dẫn nhằm bổ trợ cho lập luận của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm

Với cách thức áp dụng này, báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trước đó được viện dẫn để phân tích, giải thích các quy định cụ thể trong các hiệp định của WTO, qua đó tăng tính thuyết phục cho lập luận của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm.

- Vụ US - Clove Cigarettes[5]

Đối với vụ việc này, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ EC - Asbestos[6] được viện dẫn để xác định “sản phẩm tương tự” theo Điều 2.1 Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) của vụ US - Clove Cigarettes.

Trong vụ US - Clove Cigarettes, Indonesia đã khiếu kiện Hoa Kỳ về Mục 907 (a) (1) (A) của Đạo luật Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm Liên bang (FF FFAA) không phù hợp với Điều III: 4 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994 (GATT 1994), Điều 2 của Hiệp định TBT và các điều khoản khác nhau của Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động - thực vật (Hiệp định SPS). Do Mục 907 (a) (1) (A) cấm sản xuất và bán thuốc lá có chứa đinh hương, cũng như hầu hết các loại thuốc lá có hương vị khác tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, biện pháp cấm này không áp dụng với thuốc lá có hương vị bạc hà.

Khi xác định lệnh cấm của Hoa Kỳ vi phạm nghĩa vụ đối xử quốc gia tại Điều 2.1 của Hiệp định TBT, Ban hội thẩm đã xem xét thuốc lá có hương vị đinh hương có là sản phẩm tương tự với thuốc lá có hương vị bạc hà hay không? Hiệp định TBT không có định nghĩa “sản phẩm tương tự”, nên Ban hội thẩm đã dựa trên các tiêu chí truyền thống của WTO để xác định gồm: Đặc điểm vật lý, mục đích sử dụng cuối cùng, thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng và phân loại thuế quan[7]. Ban hội thẩm cho rằng, thuốc là hương vị đinh hương với thuốc lá hương vị bạc hà là sản phẩm tương tự và chúng có cùng mục đích sử dụng là để hút.

Cơ quan phúc thẩm mặc dù cũng đồng ý thuốc là hương vị đinh hương với thuốc lá hương vị bạc hà là sản phẩm tương tự, nhưng không đồng ý với quan điểm hai loại thuốc lá này cùng mục đích sử dụng là để hút. Theo Cơ quan phúc thẩm, mục đích sử dụng cuối cùng được dùng để mô tả các chức năng của sản phẩm. Để khẳng định cho quan điểm của mình, tại đoạn 125 của báo cáo, họ trích dẫn lại báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ EC - Asbestos cũng có quan điểm tương tự. Cơ quan phúc thẩm vụ EC - Asbestos đã mô tả mục đích sử dụng cuối cùng là “mức độ mà các sản phẩm có khả năng thực hiện là như nhau, hoặc chúng tương tự với nhau về chức năng".

Do đó, "để hút" không thể mô tả chính xác các chức năng của thuốc lá, bởi xì - gà (cigar), hay thuốc lá rời (loose tobacco) cũng có chức năng này. Cuối cùng, Cơ quan phúc thẩm cho rằng, mục đích sử dụng cuối cùng của hai loại thuốc lá trên là thỏa mãn cơn nghiện nicotine và tạo ra một trải nghiệm thú vị liên quan đến hương vị của thuốc lá và hương vị thơm của khói.[8]

- Vụ Indonesia - Autos[9]

Đối với vụ Indonesia - Autos, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ Canada - Periodicals[10] và EC - Bananas III[11] được viện dẫn để khẳng định Chương trình xe ô tô quốc gia của Indonesia bị điều chỉnh đồng thời bởi Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) và Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIMs) trong vụ Indonesia - Autos.

Trong vụ Indonesia - Autos, Indonesia bị khởi kiện bởi Cộng đồng Châu Âu (DS54), Nhật Bản (DS55 và DS64) và Hoa Kỳ (DS59). Các nguyên đơn đều khiếu kiện về Chương trình xe ô tô quốc gia Indonesia (Indonesia’s National Car Programme) vi phạm quy định của Điều I và III của GATT 1994, Điều 2 của Hiệp định TRIMs và Điều 3 của Hiệp định SCM. Nội dung chính của Chương trình xe ô tô quốc gia là yêu cầu sử dụng “hàm lượng nội địa” đối với sản xuất ô tô trong nước là điều kiện để doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế quan và thuế tiêu thụ đặc biệt.

Indonesia đưa ra lập luận rằng Hiệp định TRIMs không thể được áp dụng trong tranh chấp này. Chương trình xe ô tô của Indonesia được Chính phủ trợ cấp, và được điều chỉnh bởi Hiệp định SCM, vì vậy, Chương trình này không thể được xem xét là một biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại theo quy định của Hiệp định TRIMs. Do đó, Ban hội thẩm đã xem xét liệu chính sách về ô tô quốc gia của Indonesia có đồng thời bị điều chỉnh bởi cả hai Hiệp định SCM và Hiệp định TRIMs hay không?

Để giải thích vấn đề trên, Ban hội thẩm cho rằng[12]: (i) Hiệp định SCM và Hiệp định TRIMS có đối tượng điều chỉnh khác nhau; (ii) hai hiệp định đều nằm trong Phụ lục 1A của Hiệp định thành lập WTO, nhưng Hiệp định thành lập WTO không có quy định về mối quan hệ giữa Hiệp định SCM và Hiệp định TRIMs; (iii) Vì vậy, cần xem xét hai Hiệp định này có tồn tại xung đột, hay tạo ra sự loại trừ nghĩa vụ của nhau khi điều chỉnh cùng một vấn đề hay không; (iv) Về bản chất của nghĩa vụ, mặc dù cùng liên quan đến “yêu cầu về hàm lượng nội địa”, nhưng Hiệp định SCM và Hiệp định TRIMs điều chỉnh các nghĩa vụ và đối tượng khác nhau. Đối tượng Hiệp định SCM điều chỉnh là “trợ cấp” đối với hàng hóa nội địa, chứ không phải là các yêu cầu sử dụng hàng hóa nội địa. Đối tượng Hiệp định TRIMs điều chỉnh là các biện pháp đầu tư, tồn tại dưới hình thức yêu cầu hàm lượng nội địa, chứ không phải là việc mang lại lợi ích, như các khoản trợ cấp.

Do đó, giữa Hiệp định SCM và Hiệp định TRIMs không có sự xung đột, không tạo ra sự loại trừ nghĩa vụ của nhau khi điều chỉnh cùng một vấn đề. Cả hai Hiệp định sẽ cùng được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Indonesia và các nguyên đơn. Để ủng hộ cho quan điểm này, Ban hội thẩm đã nhắc lại quy tắc xác định mối quan hệ giữa hai hiệp định có giá trị pháp lý ngang nhau (WTO agreements at the same level) của WTO được phát triển từ báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trong hai vụ tranh chấp Canada - Periodicals và EC - Bananas III, các hiệp định khác nhau sẽ điều chỉnh những khía cạnh khác nhau của cùng một đối tượng. Nên tranh chấp giữa Indonesia với các nguyên đơn được xem xét theo hai khía cạnh khác nhau cơ bản: (i) Liên quan đến sự tồn tại của yêu cầu hàm lượng nội địa vi phạm quy định của Hiệp định TRIMs; (ii) Liên quan tới sự tồn tại của trợ cấp, gây thiệt hại cho thành viên khác theo quy định của Hiệp định SCM.

3.2. Báo cáo trước đó được viện dẫn để Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm áp dụng theo

Cách thức áp dụng này có thể thấy trong một số vụ tranh chấp liên quan đến trình tự áp dụng ngoại lệ chung theo quy định tại Điều XX của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).

Trong vụ US - Shrimp[13], Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đã khiếu kiện Hoa Kỳ áp dụng lệnh cấm nhập khẩu tôm và các sản phẩm tôm từ những nước này theo Mục 609 của Luật Công cộng Hoa Kỳ 101-162 là vi phạm các Điều I, XI và XIII của GATT 1994. Nhưng, Hoa Kỳ cho rằng các biện pháp liên quan được đưa ra theo Mục 609, mặc dù không phù hợp với Điều XI:1 của GATT 1994, nhưng được phép thực hiện theo Điều XX (b) và (g) của GATT 1994.

Trong vụ kiện này, Ban hội thẩm đã xem xét việc liệu biện pháp do Hoa Kỳ áp dụng có đáp ứng các điều kiện nêu trong Đoạn mở đầu của Điều XX hay không? Nếu có, Ban hội thẩm sẽ tiến hành xem xét liệu biện pháp đó có được điều chỉnh bởi Điều XX (b) hoặc (g) hay không.

Nhưng Cơ quan phúc thẩm đã không đồng ý các bước áp dụng Điều XX của GATT của Ban hội thẩm. Tại đoạn 118, 119 khẳng định lại kết luận tại trang 22 của Cơ quan phúc thẩm trong vụ United States - Gasoline[14] thông qua trước đó về cách thức viện dẫn Điều XX, đó là phép phân tích gồm hai bước:

Bước 1: Phải xác định xem, liệu biện pháp đang xem xét có thuộc phạm vi của một trong các khoản của Điều XX về ngoại lệ chung hay không?

Bước 2: Nếu biện pháp đang xem xét đúng là đã thuộc một trong các khoản từ (a) đến (j) của Điều này, khi đó cần phải xem xét liệu biện pháp này có thoả mãn yêu cầu tại đoạn mở đầu của Điều này hay không?

Tương tự, trong vụ Brazil - Retreaded Tyres, Cộng đồng Châu Âu (EC) đã yêu cầu tham vấn với Brazil về việc áp dụng các biện pháp ảnh hưởng xấu đến việc xuất khẩu lốp xe tái chế từ EC sang thị trường Brazil. EC cho rằng các biện pháp nêu trên không phù hợp với nghĩa vụ của Brazil, theo các Điều I: 1, III: 4, XI: 1 và XIII: 1 của GATT 1994. Nhưng Brazil cho rằng biện pháp của họ được thực hiện theo các ngoại lệ được quy định trong Điều XX (b) và (d) của GATT 1994.

Khi xem xét biện pháp của Brazil liệu có phù hợp với Điều XX của GATT, Cơ quan phúc thẩm đã nhắc lại phép phân tích hai bước trong báo cáo của Cơ quan phúc thẩm vụ United States - Gasoline. Để xác định một biện pháp có phù hợp với Điều XX của GATT hay không trước hết, Ban hội thẩm phải kiểm tra xem một biện pháp có thuộc một trong các trường hợp ngoại lệ được liệt kê trong các khoản cụ thể trong Điều XX hay không. Sau đó, Ban hội thẩm tiếp tục kiểm tra xem biện pháp này có thỏa mãn các điều kiện áp dụng nêu tại Đoạn mở đầu của Điều XX hay không[15].

4. Kinh nghiệm đối với Việt Nam

Mặc dù, theo khoản 2 Điều 3 DSU, báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm sau khi được DSB thông qua không có giá trị pháp lý bắt buộc áp dụng đối với Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong các vụ việc sau. Nhưng nhu cầu viện dẫn lại các báo cáo của Ban hội thẩm và đặc biệt là của Cơ quan phúc thẩm[16] đã được thông qua tại WTO luôn đặt ra. Bởi phạm vi chính xác của các quyền và nghĩa vụ có trong các hiệp định của WTO không phải lúc nào cũng rõ ràng từ việc đọc các quy định trong hiệp định,mà luôn cần có sự giải thích trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng phải đảm bảo “tạo ra sự an toàn và khả năng dự đoán trước cho hệ thống thương mại đa phương” (khoản 2 Điều 3 của DSU).

Thực tiễn áp dụng các các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã được thông qua tại WTO như phân tích ở trên cho thấy:

- Báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã được thông qua được Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm trong những vụ tranh chấp sau thừa nhận theo hai cách thức là báo cáo trước đó được viện dẫn nhằm bổ trợ cho lập luận của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm và báo cáo trước đó được viện dẫn để Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm áp dụng theo. Dưới góc độ này, có tác giả cho rằng, những báo cáo đã được thông qua có giá trị tham khảo và có thể được xem như một dạng án lệ không ràng buộc về mặt pháp lý.[17]

- Việc viện dẫn báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm đã được thông qua trong vụ việc nào trước đó, hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Do đó, nếu trong vụ việc này, Ban hội thẩm viện dẫn báo cáo của vụ tranh chấp DS “X” nào đó, thì với khi xem xét vấn đề tương tự trong vụ tranh chấp khác, Ban hội thẩm cũng không bắt buộc phải viện dẫn báo cáo của vụ tranh chấp DS “X” kia.

- Khi cần giải thích một vấn đề pháp lý cụ thể, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm có xu hướng viện dẫn một số báo cáo nhất định đã được DSB thông qua. Như trong hai vụ US - Shrimp và Brazil - Retreaded Tyres nêu trên, Cơ quan phúc thẩm đều viện dẫn đến báo cáo của Cơ quan phúc thẩm trong vụ United States - Gasoline để xác định trình tự áp dụng ngoại lệ chung theo quy định tại Điều XX của GATT.

Việc nghiên cứu, làm rõ thực tiễn áp dụng các báo cáo đã được thông qua trong cơ chế giải quyết tranh chấp tại WTO nêu trên, là cơ sở để các nước thành viên WTO nói chung và Việt Nam nói riêng khi tham gia giải quyết tranh chấp: (i) Có quyền viện dẫn các báo cáo đã được DSB thông qua để tăng tính thuyết phục cho lập luận của mình; (ii) Nên viện dẫn những báo cáo thường được Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm áp dụng khi xem xét vấn đề tương tự; (iii) Các báo cáo đã được thông qua do các bên tham gia tranh chấp đưa ra cũng có thể coi là một đề xuất để Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm lựa chọn, qua đó mang lại lợi thế cho chính bản thân họ.

ThS. Tào Thị Huệ

Đại học Luật Hà Nội


[1]WTO, “Chronological list of disputes cases”, xem tại: https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/dispu_status_e.htm (truy cập ngày 01/9/2019).

[2] Hanoi Law University (2017), Textbook International Trade and Business Law, People’s Public Security Publishing House, Hanoi (Giáo trình song ngữ Anh - Việt do Liên minh Châu Âu (EU) tài trợ trong khuôn khổ Dự án EU - Việt Nam MUTRAP III), tr. 607.

[3] WTO, “Legal effect of panel and appellate body reports and DSB recommendations and rulings”, xem tại: https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/disp_settlement_cbt_e/c7s2p1_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[4]Appellate Body Report, Japan - Alcoholic Beverages II, p.14 (Japan - Alcoholic Beverages II là tên viết tắt của vụ DS8: Japan - Taxes on Alcoholic Beverages, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds8_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[5]US - Clove Cigarettes là tên viết tắt của vụ DS406: United States - Measures Affecting the Production and Sale of Clove Cigarettes, xem tại: https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds406_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[6]EC - Asbestos là tên viết tắt của vụ DS135: European Communities — Measures Affecting Asbestos and Products Containing Asbestos, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds135_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[7] Panel Report, US - Clove Cigarettes, para. 7.244.

[8] Appellate Body Report, US - Clove Cigarettes, para. 132.

[9] Indonesia - Autos là tên viết tắt của vụ DS54, DS 55, DS 59, DS64: Indonesia - Certain Measures Affecting the Automobile Industry, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds59_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[10] Canada - Periodicals là tên viết tắt của vụ DS31: Canada - Certain Measures Concerning Periodicals, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds31_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[11] EC - Bananas III là viết tắt của vụ DS27: European Communities - Regime for the Importation, Sale and Distribution of Bananas, https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds27_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[12] Xem: Panel Report, Indonesia - Autos, p. 334, 335.

[13]US - Shrimp là tên viết tắt của vụ DS58: United States - Import Prohibition of Certain Shrimp and Shrimp Products, xem tại: https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds58_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[14]United States - Gasoline là tên viết tắt của vụ DS2: United States - Standards for Reformulated and Conventional Gasoline, xem tại: https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/cases_e/ds2_e.htm (truy cập ngày 31/8/2019).

[15] Appellate Body Report, Brazil - Retreaded Tyres, para. 139.

[16] Do thẩm quyền của Cơ quan phúc thẩm là chỉ được xem xét kháng cáo về những vấn đề về pháp lý được đề cập đến trong báo cáo của ban hội thẩm và những giải thích pháp luật của ban hội thẩm (khoản 6 Điều 17 DSU). Cơ quan Phúc thẩm có quyền giữ nguyên, sửa đổi hoặc quyết định ngược lại các ý kiến và kết luận của ban hội thẩm (khoản 13 Điều 17 DSU).

[17] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, TS. Nguyễn Bá Bình chủ biên, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2018, tr. 66.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm