Chủ nhật 14/12/2025 04:33
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam

Quyền sử dụng đất của doạnh nghiệp có vốn ĐTNN đã ngày càng được mở rộng và tiệm cận bình đẳng với QSDĐ của các tổ chức kinh tế trong nước. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực sự trở thành công cụ pháp lý quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.

1. Khái quát nội dung pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam


Giai đoạn trước năm 2003, địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trong lĩnh vực đất đai đã được ghi nhận trong các đạo luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài và các đạo luật đất đai[1]. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nội dung pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất tại Việt Nam được quy định tập trung chủ yếu tại các văn bản dưới luật[2] với phạm vi quyền sử dụng đất (QSDĐ) của loại hình chủ thể này bị hạn chế nhiều so với các tổ chức kinh tế trong nước. Chỉ đến khi Luật Đất đai năm 2003 được ban hành, nội dung quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN mới chính thức được luật hóa với nhiều nội dung đổi mới, tiến bộ mang tính đột phá. Trong Luật Đất đai năm 2003, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất đã được xây dựng trong cùng một chương quy định về quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể sử dụng đất[3]. Điều này về cơ bản đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử và xác lập trật tự pháp lý công bằng, bình đẳng cho các chủ thể sử dụng đất[4]. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, doanh nghiệp có vốn ĐTNN có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ chung như mọi chủ thể sử dụng đất khác[5]. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất đã được mở rộng thêm những quyền cụ thể tương đồng với quyền của các tổ chức kinh tế trong nước. Đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, doanh nghiệp có vốn ĐTNN được ghi nhận những quyền cụ thể sau[6]: Thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê; bán tài sản thuộc sở hữu của mình gắn với đất thuê; cho thuê nhà trong trường hợp được phép đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở. Đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, doanh nghiệp có vốn ĐTNN được ghi nhận những quyền cụ thể thể sau[7]: Chuyển nhượng QSDĐ thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn với đất; bán hoặc cho thuê nhà trong trường hợp được phép đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở. Những quy định theo hướng mở rộng QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong Luật Đất đai năm 2003 đã tạo lập sự bình đẳng hơn giữa nhóm chủ thể này với các tổ chức kinh tế trong nước sử dụng đất. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ ở nước ta, một số quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất đã trở nên lạc hậu so với những quy định của pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp, chưa phù hợp với nội dung cam kết của Việt Nam trong một số điều ước quốc tế về thương mại, đầu tư. Chính vì vậy, Luật Đất đai năm 2003 đã được thay thế bởi Luật Đất đai năm 2013 sau 10 năm được ban hành.


Trên cơ sở kế thừa thành quả của Luật Đất đai năm 2003, quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong Luật Đất đai năm 2013 đã được bổ sung những nội dung mới phù hợp hợp hơn với thực tiễn đời sống kinh tế và bảo đảm sự tương thích với các quy định trong pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp. Ngoài nội dung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong trường hợp được Nhà nước cho thuê đất (trả tiền hàng năm hoặc trả tiền một lần cho cả thời gian thuê) được kế thừa từ Luật Đất đai năm 2003[8], Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong những trường hợp sau: (i) Doanh nghiệp có vốn ĐTNN được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư[9]; (ii) Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có sử dụng đất được hình thành do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam[10]; (iii) Doanh nghiệp liên doanh sử dụng đất do nhận góp vốn bằng QSDĐ và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được chuyển đổi từ doanh nghiệp liên doanh[11]; (iv) Doanh nghiệp có vốn ĐTNN thuê đất để xây dựng công trình ngầm[12]. Những quy định mới này đã góp phần bổ sung toàn diện hơn trong nội dung pháp lý về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, đồng thời tạo ra sự thống nhất giữa pháp luật đất đai và các lĩnh vực pháp luật liên quan.


Có thể thấy rằng, pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất tại Việt Nam đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Nội dung pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất đã thể chế kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về đất đai và thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong từng thời kỳ. Quyền sử dụng đất của doạnh nghiệp có vốn ĐTNN đã ngày càng được mở rộng và tiệm cận bình đẳng với QSDĐ của các tổ chức kinh tế trong nước. Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN thực sự trở thành công cụ pháp lý quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.


2. Một số hạn chế, bất cập trong pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam


Thứ nhất, chưa bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn về quyền và nghĩa vụ trong sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với tổ chức kinh tế trong nước.


Quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn ĐTNN được quy định trong pháp luật hiện hành về cơ bản đã tiệm cận với quyền và nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế trong nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn ĐTNN vẫn có sự khác biệt và chưa hoàn toàn bình đẳng so với tổ chức kinh tế trong nước. Cụ thể như sau:


- Đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm thì pháp luật quy định cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN được cho thuê nhà ở trong trường hợp được phép đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở[13]. Trong khi đó, tổ chức kinh tế trong nước không được pháp luật cụ thể về quyền đó, mặc dù tổ chức kinh tế trong nước có thể được Nhà nước cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư nhà ở để cho thuê[14] và được quyền lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất đối với trường hợp này[15]. Sự khác biệt trong nội dung quy định này ít nhiều tạo ra sự thiếu bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn ĐTNN so với tổ chức kinh tế trong nước, đồng thời, gây khó khăn cho các chủ thể trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tiễn.


- Đối với trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê thì quyền của doanh nghiệp có vốn ĐTNN vẫn bị hạn chế hơn so với tổ chức kinh tế trong nước khi không được quy định quyền tặng cho QSDĐ, trong khi đó, tổ chức kinh tế trong nước được ghi nhận quyền này từ Luật Đất đai năm 2003 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Đất đai năm 2013[16]. Quy định về sự bất bình đẳng này là không thực sự cần thiết, bởi vì, quyền tặng cho QSDĐ của tổ chức kinh tế trong nước theo quy định hiện hành chỉ nhằm vào mục đích xã hội hoặc vì mục đích lợi ích chung thì việc quy định quyền này cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng không gây ra bất kỳ sự ảnh hưởng tiêu cực nào.


Thứ hai, chưa bảo đảm tính hợp lý, sự rõ ràng và chính xác trong một số quy định.


- Pháp luật đất đai hiện hành quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam được áp dụng đối với mọi doanh nghiệp có vốn ĐTNN mà không có sự phân biệt về tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài[17]. Điều này chưa thực sự hợp lý, bởi vì, địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong lĩnh vực đầu tư nói chung và trong quá trình sử dụng đất thực hiện dự án đầu tư nói riêng cần phải căn cứ vào tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài[18]. Bên cạnh đó, quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất ở một số trường hợp khác ngay trong Luật Đất đai năm 2013 cũng được xác định trên cơ sở tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài[19]. Chính vì vậy, quy định của Luật Đất đai năm 2013 về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư hiện nay chưa bảo đảm sự hợp lý, không phù hợp với quy định trong pháp luật đầu tư và thiếu thống nhất với chính các quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất trong những trường hợp khác.


- Luật Đất đai năm 2013 quy định doanh nghiệp có vốn ĐTNN có quyền góp vốn bằng QSDĐ, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh trong thời hạn sử dụng đất[20]. Nội dung quy định này còn khá chung chung khi chưa xác định việc góp vốn này được thực hiện để góp vốn vào tổ chức kinh tế hay góp vốn trong hợp đồng hợp tác kinh doanh và trong trường hợp góp vốn bằng QSDĐ vào tổ chức kinh tế thì được thực hiện khi thành lập tổ chức kinh tế mới hay góp vốn vào tổ chức kinh tế đã được thành lập và đang hoạt động. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 cũng chưa có quy định cụ thể về vấn đề này[21]. Ngoài ra, quy định về quyền góp vốn bằng QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng không rõ ràng trong việc xác định diện chủ thể mà doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thực hiện việc góp vốn bằng QSDĐ. Trong khi đó, Luật Đất đai năm 2013 quy định rất cụ thể và chi tiết về quyền góp vốn bằng QSDĐ đối với các loại chủ thể sử dụng đất khác[22]. Những bất cập trong quy định về quyền góp vốn bằng QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN khiến cho chủ trương “Tạo thuận lợi cho việc chuyển nhượng hoặc cho thuê QSDĐ, góp vốn bằng giá trị QSDĐ”[23] chưa được triển khai thực sự có hiệu quả trên thực tế.


- Trong những quy định về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Luật Đất đai năm 2013, một số khái niệm liên quan đến nội hàm của khái niệm “Doanh nghiệp có vốn ĐTNN” còn thiếu rõ ràng, chưa cụ thể dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế. Trước hết, đó là khái niệm “Tỷ lệ cổ phần chi phối” và khái niệm “Bên Việt Nam”. Đây là những khái niệm có ý nghĩa đối với việc xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất trong trường hợp doanh nghiệp có vốn ĐTNN có sử dụng đất được hình thành do nhà ĐTNN mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam[24]. Tuy nhiên, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định giải thích tỷ lệ bao nhiêu là “Tỷ lệ cổ phần chi phối” và “Bên Việt Nam” thì gồm những chủ thể nào? Trong khi đó, Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp hiện hành cũng không có quy định về những khái niệm này. Chính vì vậy dẫn đến có thể có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau đối với những quy định đó. Bên cạnh hai khái niệm trên, Luật Đất đai năm 2013 còn chưa thống nhất trong sử dụng khái niệm “mua cổ phần” hay “nhận chuyển nhượng cổ phần” trong quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất hình thành do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản luật liên quan còn quy định chưa thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ “Nhà đầu tư nước ngoài” hay thuật ngữ “tổ chức, cá nhân nước ngoài” ở một số quy định liên quan đến doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất[25]. Điều này tạo ra sự thiếu đồng bộ trong chính các quy định của pháp luật đất đai cũng như giữa các quy định của pháp luật đất đai với quy định của pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp.


Thứ ba, chưa bảo đảm tính toàn diện khi thiếu quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất trong một số trường hợp.


Mặc dù đã được bổ sung một số quy định mới so với Luật Đất đai năm 2003, tuy nhiên, nội dung về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2013 vẫn chưa quy định đối với một số loại hình doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong những trường hợp sau:
- Trường hợp doanh nghiệp có vốn ĐTNN được Nhà nước cho thuê đất để xây dựng công trình sự nghiệp[26].
- Trường hợp doanh nghiệp có vốn ĐTNN được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm không nhằm mục đích kinh doanh[27].
- Trường hợp doanh nghiệp có vốn ĐTNN được hình thành do các nhà đầu tư trong nước góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN hoặc doanh nghiệp có vốn ĐTNN mà nhà ĐTNN chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối dẫn đến bên Việt Nam chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
- Trường hợp doanh nghiệp có vốn ĐTNN được hình thành do việc tiến hành các hoạt động tổ chức lại (chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi) doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp[28].Sự thiếu vắng những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong các trường hợp trên không chỉ tạo ra sự thiếu toàn diện trong những quy định của Luật Đất đai năm 2013 mà còn dẫn đến những vướng mắc trong thực thi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể sử dụng đất cũng như những khó khăn trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai.


3. Một số kiến nghị


Một là, rà soát, sửa đổi các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với tổ chức kinh tế trong nước, bảo đảm sự phù hợp với chủ trương “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật”[29]. Đồng thời, bảo đảm sự phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia trong các hiệp định thương mại, đầu tư mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.


Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định về quyền góp vốn bằng QSDĐ và những quy định liên quan đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất theo tỷ lệ nắm giữ vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài để bảo đảm sự cụ thể, chính xác, khả thi và thống nhất với những quy định của pháp luật đầu tư.


Ba là, bổ sung quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất đối với những trường hợp nêu trên để bảo đảm sự toàn diện, thống nhất trong các quy định về doanh nghiệp có vốn ĐTNN sử dụng đất tại Việt Nam hiện nay./.

ThS. Phạm Xuân Thắng
Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân


[1] Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 sửa đổi, bổ sung năm 1992 và Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 sửa đổi, bổ sung năm 2000; Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung năm 1998, năm 2001.

[2] Pháp lệnh ngày 14/10/1994 về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam; Nghị định số 11/CP ngày 24/1/1995 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh ngày 14/10/1994; Thông tư số 679 TT/ĐC ngày 12/5/1997 hướng dẫn việc thuê đất để thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

[3] Điều 105 đến Điều 121 Chương IV Luật Đất đai năm 2003.

[4] Doãn Hồng Nhung, Hành lang pháp lý mới cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 1/2005, tr. 41 - 46.

[5] Điều 105 và Điều 107 Luật Đất đai năm 2003.

[6] Khoản 2 Điều 119 và điểm b khoản 2 Điều 120 Luật Đất đai năm 2003.

[7] Khoản 3 Điều 119 và điểm c khoản 2 Điều 120 Luật Đất đai năm 2003.

[8] Khoản 2, khoản 3 Điều 119 Luật Đất đai năm năm 2003 được kế thừa tại khoản 2, khoản 3 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013.

[9] Khoản 3 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013.

[10] Khoản 4 Điều 183 Luật Đất đai năm năm 2013.

[11] Điều 184 Luật Đất đai năm 2013.

[12] Điều 187 Luật Đất đai năm 2013.

[13] Điểm d khoản 2 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013

[14] Điểm đ khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013.

[15] Khoản 1 Điều 172 Luật Đất đai năm 2013.

[16] Điểm c khoản 2 Điều 174 Luật Đất đai năm 2013.

[17] Khoản 2, khoản 3 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013.

[18] Điều 23 Luật Đầu tư năm 2020.

[19] Khoản 4 Điều 183 và khoản 4 Điều 184 Luật Đất đai năm 2013.

[20] Điểm đ khoản 3 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013.

[21] Điều 79 và Điều 80 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; Điều 79a Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai..

[22] Điểm đ khoản 2 Điều 174 và Điểm h khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013.

[23] Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

[24] Khoản 4 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013.

[25] Điểm a khoản 4 Điều 183, khoản 1 và khoản 3 Điều 184 Luật Đất đai năm 2013.

[26] Điểm e khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013.

[27] Khoản 2 Điều 57 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013.

[28] Điều 198, Điều 199, Điều 200 và Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: