Thứ sáu 20/06/2025 08:20
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và xu hướng hoàn thiện

Hiện nay, ở Việt Nam, thuế và hệ thống thuế đã và đang không chỉ là mối quan tâm của các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, của các nhà nghiên cứu mà còn của cả các doanh nghiệp và đông đảo quần chúng nhân dân. Trong giai đoạn cải cách hệ thống chính sách thuế, nhiều sắc thuế đã được nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời đại mới, đảm bảo hiệu quả quản lý của Nhà nước, trong đó có chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt.

Thuế tiêu thụ đặc biệt có vai trò quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Nó không chỉ là một công cụ để định hướng tiêu dùng trong đời sống mà còn là một nguồn thu thiết yếu cho ngân sách Nhà nước. Việc có những chính sách hiệu quả, hành lang pháp lý toàn diện, chặt chẽ trong việc quản lý, thu thuế tiêu thụ đặc biệt là điều hết sức cần thiết. Nhưng sau một thời gian dài thi hành pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 1990 đến Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã cho thấy còn nhiều bất cập gây nên tình trạng thất thu ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, hiện nay, trong xu thế hội nhập, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều các hiệp định thương mại tự do với những cam kết về miễn, giảm thuế xuất, nhập khẩu. Những vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc sửa đổi, bổ sung những hạn chế của các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành.

1. Thực trạng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt

Thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam được điều chỉnh bởi một khung pháp lý khá toàn diện. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đầu tiên được Quốc hội khoá IX ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó những lần sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2006. Thực hiện chương trình xây dựng Luật của Quốc hội năm 2008, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2009. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16/3/2009 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn số 64/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009. Tháng 12/2011, Chính phủ cho sửa đổi một số quy định trong Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật (Nghị định số 113/2011/NĐ-CP ngày 08/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16/3/2009).

Hiện nay, xu thế hội nhập thế giới thông qua những cam kết quốc tế, và tình hình đất nước với những chính sách kinh tế, xã hội đổi mới, đã đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện, sửa đổi chính sách pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, để vừa đảm bảo việc thực thi các cam kết quốc tế cũng như thực hiện tốt các chính sách về kinh tế, xã hội của đất nước.

Hiện thực hóa nhiệm vụ này, một số văn bản pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt được ban hành như: Luật số 70/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008; Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế; Nghị định số 108/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/10/2015; Thông tư số 195/2015/TT-BTC ngày 24/11/2015 của Bộ Tài chính. Đến ngày 26/11/2014, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.

Nhìn chung, các nội dung sửa đổi theo hướng quy định rõ ràng, minh bạch về đối tượng không chịu thuế, trị giá tính thuế, khấu trừ thuế nhằm tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế, đồng thời ngăn ngừa các trường hợp lợi dụng, trục lợi để trốn thuế, góp phần tạo môi trường bình đẳng, lành mạnh.

1.2. Những thay đổi tích cực của các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành

Những sửa đổi, bổ sung của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh giá là đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với người sản xuất, kinh doanh và với người tiêu dùng. Cụ thể:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 1 Luật số 70/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 đã loại bỏ khỏi đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component) và các chế phẩm khác để pha chế xăng. Sự sửa đổi này sẽ giải quyết được vấn đề gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một số lĩnh vực. Ví dụ: Nap-ta và chế phẩm tái hợp không chỉ sử dụng để sản xuất xăng mà còn được sử dụng làm dung môi để sản xuất các sản phẩm khác không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như sơn, sợi tổng hợp, chất tẩy rửa…

Thứ hai, khoản 1 Điều 2 Luật số 70/2014 đã bổ sung một số đối tượng không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng. Việc bổ sung tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là nhằm đảm bảo đúng mục tiêu điều tiết của thuế tiêu thụ đặc biệt. Hơn nữa, an ninh, quốc phòng là lĩnh vực Nhà nước đảm bảo 100% ngân sách nên về kỹ thuật, việc đưa vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng giúp giảm bớt các thủ tục thu, chi ngân sách.

Thứ ba, khoản 4 Điều 1 Luật số 70/2014 đã Luật hóa quy định về giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt trong trường hợp hàng hóa vừa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vừa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường.

Thứ tư, khoản 2 Điều 2 Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế đã có sự điều chỉnh thuế suất của một số hàng hóa, dịch vụ. Theo đó, tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng, các loại xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng, xe mô tô, đặc biệt là nâng mức thuế suất rất cao với các loại ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống có dung tích xi - lanh trên 3.000 cm3. Ngoài ra, đối với mặt hàng xăng thì bổ sung thêm 2 mức thuế suất thấp dành cho xăng sinh học, giảm mức thuế suất với loại xe ô tô chạy bằng điện.

Thứ năm, quy định trong khoản 1 Điều 2 Luật số 106/2016/QH13 được ban hành để hạn chế tình trạng chuyển giá trong việc tính thuế tiêu thụ đặc biệt của các doanh nghiệp.

Việc ký kết rất nhiều hiệp định tự do thương mại như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,... và các cam kết trong khuôn khổ WTO đã dẫn đến sự thay đổi lớn về chính sách thuế của đất nước, đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt. Biểu hiện cụ thể rõ nhất là sự thay đổi về thuế suất đối các một số loại hàng hóa. Nhìn chung việc thay đổi mức thuế suất bên cạnh việc đảm bảo thực thi cam kết quốc tế cũng đã có những định hướng tích cực cho chính sách xã hội như: hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá, các phương tiện giao thông cá nhân,...

1.3. Những hạn chế trong các quy định pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành

Bên cạnh những thay đổi mang tính tích cực, thực tiễn hoạt động quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt đã cho thấy pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục như:

Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế: Theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế tiêu thụ đặc biệt thì có một số đối tượng cần áp thuế tiêu thụ đặc biệt thì chưa bị đánh thuế còn một số đối tượng không nên tiếp tục bị áp thuế thì vẫn bị đánh thuế.

Ví dụ: Nước ngọt có ga là loại hàng hóa hiện nay được sử dụng rất nhiều và không có lợi cho sức khỏe. Xem xét một cách toàn diện loại hàng hóa này có nhiều điểm tương đồng với bia, rượu, mà trong khi bia, rượu đã bị áp thuế tiêu thụ đặc biệt từ rất lâu với mức thuế suất cao. Bên cạnh đó, việc loại hàng hóa là điều hòa có công suất dưới 90.000 BTU bị đánh thuế cũng là không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Mặt hàng này không chỉ dùng vào mục đích sinh hoạt mà còn được sử dụng rất nhiều cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh nên việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt để định hướng tiêu dùng đối với mặt hàng này hiện nay là không hợp lý.

Thứ hai, về mức thuế suất: Mức thuế suất của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện tại chỉ điều chỉnh cho đối tượng là hàng hóa mà chưa chú trọng tới đối tượng là dịch vụ

Trong những lần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt thì mức thuế suất chỉ thay đổi với các loại hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (chủ yếu là: Ô tô, môtô, rượu, bia) trong khi thuế suất tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho các loại dịch vụ như: Karaoke, vũ trường, ca-si-nô, gôn,... thì không bị thay đổi trong khi đây là những dịch vụ rất cần thiết phải có sự định hướng tiêu dùng từ chính sách thuế.

Thứ ba, về giá tính thuế: Theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt, tức là giá bán có tính cả chi phí bao bì, vỏ hộp trong đó, thế nhưng trong thực tế thì lại áp dụng không thống nhất, có loại hàng hóa áp dụng trên cơ sở giá bán có bao bì, có trường hợp áp dụng giá bán không có bao bì nên không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các hàng hóa cùng loại với nhau. Điều này có thể thấy rất rõ đối với mặt hàng là bia lon và bia

Thứ tư, chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật thuế vẫn chưa đủ sức răn đe. Minh chứng cho vấn đề này là tình trạng: Chậm nộp thuế, chốn thuế vẫn còn xảy ra nhiều gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Các quy định mức xử phạt trong Nghị định số129/2013/ NĐ-CP vẫn còn chưa thực sự mang tính răn đe với các hành vi vi phạm.

2. Thực trạng thực thi pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Có thể nói, trong thời gian vừa qua, Nhà nước có những thay đổi phù hợp với các yếu tố khách quan, cân bằng lợi ích giữa lợi ích của Nhà nước và cá nhân. Tạo khung pháp lý cơ bản để việc thi hành thuế tiêu thụ đặc biệt được diễn ra thuận lợi, không gây bất lợi hoặc gây những cách hiểu khác nhau dẫn tới cách áp dụng khác nhau. Các doanh nghiệp chấp hành khá nghiêm chỉnh việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt theo các quy định về trình tự kê khai, nộp thuế, tính thuế của pháp luật và việc lưu, giữ các hóa đơn, chứng từ cũng được các doanh nghiệp quan tâm một cách thích đáng để làm căn cứ nộp thuế thuế tiêu thụ đặc biệt, khấu trừ thuế thuế tiêu thụ đặc biệt …

Thuế tiêu thụ đặc biệt mặc dù có diện đối tượng chịu thuế thu hẹp nhưng lại có thuế suất cao hơn các loại thuế gián thu khác, vì vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt đem lại được cho Ngân sách nhà nước nguồn thu không nhỏ. Theo thống kê tỷ trọng số thu từ thuế thuế tiêu thụ đặc biệt lớn thứ tư trong tỷ trọng các số thu từ sắc thuế hiện hành.

Bên cạnh những mặt tích cực trong việc thực thi pháp luật thì hiện nay, việc thực thi pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt còn những tồn tại như sau:

Thứ nhất, tồn tại lớn nhất của việc thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt đó là hành vi trốn thuế của các đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng bị áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc ấn định thuế được quy định tại điều 25 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thuế tiêu thụ đặc biệt mà doanh nghiệp, cá nhân phải thực hiện đã dẫn tới hậu quả là, nếu tồn tại sự “hợp tác ngầm” giữa cán bộ thu thuế và người nộp thuế sẽ làm thất thoát số thuế thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp mà không bị xử lý. Việc trốn thuế có thể thực hiện thông qua hành vi chuyển giá, tức là hành vi do các cơ sở kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá hàng hóa, dịch vụ trong các giao dịch mua, bán giữa các cơ sở kinh doanh có mối quan hệ đặc biệt, với mục đích giảm thiểu tới mức có thể nghĩa vụ thuế của các bên trong giao dịch đối với nhà nước.

Thứ hai, cơ chế kiểm tra, giám sát thuế tiêu thụ đặc biệt còn lỏng lẻo dẫn tới hiện tượng gian lận, trốn thuế tiêu thụ đặc biệt; cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ thuế, cơ sở vật chất và trang thiết bị, môi trường quản lý thuế và công nghệ quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt còn chưa hiệu quả dẫn tới hiện tượng gian lận, trốn thuế tiêu thụ đặc biệt.

Thứ ba, mặc dù chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ quan thuế đã được kiện toàn một bước theo Quyết định số 504/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục Thuế quy định chức năng, nhiệm vụ của các đội thuộc Chi cục Thuế nhưng thực trạng vẫn còn chồng chéo, chưa chuyên sâu, chuyên nghiệp. Chức năng cưỡng chế thu nợ thuế của cơ quan thuế chưa được quy định rõ nên việc xác định và xử lý chưa kịp thời các gian lận lớn về thuế và xử lý nợ đọng gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, một bộ phận cán bộ thuế hiện nay chưa có kỹ năng chuyên sâu, khả năng ứng dụng các tiến bộ công nghệ tin học vào quản lý thuế hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu cải cách hành chính thuế, thậm chí một bộ phận cán bộ quản lý thuế chưa nắm vững và thực hiện tốt các chính sách thuế và quy trình biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế hiện hành. Thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận cán bộ thuế chưa thật tận tụy, công tâm, khách quan, văn minh, lịch sự, chưa coi đối tượng nộp thuế là khách hàng quan trọng để nâng cao chất lượng phục vụ, chưa trở thành người bạn đồng hành của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế, thậm chí có nhiều biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm.

Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp. Bởi lẽ, thực trạng của Việt Nam hiện nay trình độ dân trí vẫn còn thấp, nhận thức trách nhiệm pháp luật chưa cao; tình trạng gian lận về thuế còn khá phổ biến nhưng chưa được phát hiện, truy thu kịp thời cho ngân sách Nhà nước. Do đó, vừa thất thu cho ngân sách Nhà nước vừa chưa thực sự đảm bảo công bằng xã hội và tính nghiêm minh về pháp luật thuế.

3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt

Thứ nhất, với diện đánh thuế hẹp,thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ tập trung điều tiết một số hàng hóa và dịch vụ nhất định.Tùy theo quan điểm và chính sách của nhà nước trong từng thời kì mà pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng cần điều chỉnh và hoàn thiện danh sách hàng hóa, dịch vụ chịu thuế cho phù hợp và kịp thời với mục tiêu phát triển của thực tiễn và chính sách của Nhà nước. Có như vậy, việc ban hành và áp dụng luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới đảm bảo việc động viên một bộ phận thu nhập cao cho ngân sách nhà nước; đảm bảo được mục tiêu hướng dẫn, điều tiết sản xuất và tiêu dùng một số loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theo của Nhà nước, hạn chế những xu hướng sản xuất hoặc tiêu dùng không có lợi cho nền kinh tế.

Do đó, pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt phải tiếp tục là công cụ điều tiết thu nhập trong xã hội, góp phần bớt phân hóa giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Ví dụ nên mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sau: Các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp; điện thoại di động và dịch vụ kinh doanh nó; vật dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len; mỹ phẩm cao cấp,… không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Việc mở rộng diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với những loại hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu. Qua việc mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trên đây, sẽ cho phép tăng thu từ loại thuế này góp phần bù đắp cho việc giảm thu từ các loại thuế khác (thuế nhập khẩu , thuế sử dụng đất nông nghiệp…).

Ngoài ra, không nên áp dụng chế độ miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bởi đây là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu thuế, các cơ sở sản xuất chỉ là người nộp hộ nên việc quy định miễn giảm thuế đối với loại thuế này là không hợp lý. Đây cũng là những loại hàng hóa dịch vụ mà Nhà nước cần điêu tiết, định hướng cho việc sản xuất, tiêu dùng để đảm bảo lợi ích cộng đồng, hầu hết những loại hàng hóa dịch vụ này không phải là những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, không thuộc diện khuyến khích tiêu dùng (ngoại trừ những mặt hàng cá biệt như xăng), nên việc quy định miễn giảm thuế đối với các mặt hàng này là không cần thiết.

Thứ hai, các nhà làm luật cần xây dựng cơ cấu thuế suất và đối tượng chịu thuế phù hợp với diễn biến mới của điều kiện kinh tế xã hội hội nhập ở Việt Nam, đặc biệt là những yêu cầu song hành của tiến trình hội nhập và nguồn thu ngân sách. Phù hợp với tiến trình hội nhập, thuế tiêu thụ đặc biệt đã có nhiều thay đổi đáng kể để đạt được mục tiêu kể trên, cụ thể là đối với mặt hàng ô tô. Với mục tiêu định hướng khuyến khích sử dụng năng lượng sinh học nhằm bảo đảm thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, Luật số 70/2014/QH13 có quy định áp mức thuế suất đặc biệt thấp đối với loại xe sử dụng năng lượng sinh học (chỉ bằng ½ mức thuế suất cơ bản đối với xe chạy bằng xăng có cùng mức dung tích xi lanh). Cùng với quy định bổ sung cụ thể các mức thuế suất chi tiết, ứng với lộ trình hội nhập trong Biểu thuế, Luật số 70/2014/QH13 có bổ sung thêm vào diện áp thuế đối với các mặt hàng mới là: Ô tô chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học được quy định tại các dòng thuế 4(e): Dòng thuế 4(g) quy định mức thuế ô tô chạy bằng điện; và dòng thuế 4(h) áp thuế đối với xe mô-tô-hôm… Những điều chỉnh này là rất phù hợp nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp là mặt hàng ô tô. Xét về tổng thể, luật thuế tiêu thụ đặc biệt cần được bổ sung những đối tượng chịu thuế mới trên cơ sở đánh giá khả năng quản lý và thu thuế trên thực tế. Nhà sản xuất, cung ứng mặt hàng như nước giải khát có ga, dịch vụ spa, resort, thẩm mỹ nên được cân nhắc để thu thuế trong giai đoạn tới. Việc phân loại thành các tiểu nhóm áp dụng mức thuế suất khác nhau như được áp dụng với mặt hàng ô tô là giải pháp phù hợp với những mặt hàng còn nhiều tranh cãi.

Thứ ba, thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế dễ bị thất thu, vì những tồn tại vốn có của nó khi chỉ có chủ thể sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ mới là đối tượng nộp thuế. Vì thế, hiện tượng móc ngoặc, chuyển giá dễ dàng được thực hiện làm cho các giao dịch không phản ánh đúng giá trị thực được che dấu. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ đối với loại thuế này. Siết chặt khâu quản lý tại cơ sở sản xuất từ khâu nhập, xuất nguyên liệu hàng hoá đối chiếu với công thức sản xuất để phát hiện trốn, lậu thuế, đặc biệt với các doanh nghiệp phải nộp thuế với mức lớn, thuế suất cao.

Ngoài ra, phương thức thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế cần được tăng cường áp dụng trên thực tế kết hợp với các chế tài mạnh, thậm chí là thu giấy phép để đảm bảo tính răn đe, đảm bảo nguồn thu ngân sách từ thuế tiêu thụ đặc biệt.

Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật thuế nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng; tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý thuế.

Thuế là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chính sách thuế phải phù hợp với đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, đòi hỏi chính đáng của mọi công dân, mọi tổ chức. Do đó, để phù hợp với bối cảnh hội nhập, chính sách thuế tất yếu phải thay đổi, tuy nhiên phải đảm bảo kết quả tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước, đảm bảo đầy đủ nghĩa vụ và quyền cho mọi tầng lớp nhân dân dù ở bất kỳ giai đoạn, thời kỳ này, dù thực hiện mục tiêu gì đi nữa. Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan, tạo cơ hội cho nước ta có thể tranh thủ tập trung vào phát triển kinh tế, tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới tạo đà thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ. Ngược lại cũng xuất hiện những thách thức lớn là sức ép cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài tăng mạnh. Do đó, chính sách thuế nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng cần phải đổi mới và hoàn thiện hơn nữa, góp phần đắc lực vào tiến trình hội nhập.

Nguyễn Thanh Tùng

Đại học Luật Hà Nội



Tài liệu tham khảo

1. Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

2. Giáo trình lý thuyết tài chính, Dương Đăng Chính (2009), Nxb. Tài chính.

3. Đại học Kinh tế Quốc dân (2002), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb. Thống kê.

4. Nguyễn Thị Việt Anh (2014), Hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

5. Nguyễn Trọng Nghĩa (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện thể chế tài chính 2011 - 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

6. Phạm Thị Giang Thu (2007), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

7. Lê Thị Thu Thủy (2005), Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Đại học Khoa học Huế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm