Chủ nhật 15/06/2025 19:02
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng và kiến nghị hoàn thiện

Thực trạng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng và kiến nghị hoàn thiện

Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả phân tích các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với các vi phạm trong hoạt động công chứng, từ đó, chỉ ra những bất cập và kiến nghị giải pháp hoàn thiện.

1. Vài nét khái quát về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng

Trong lĩnh vực công chứng, Luật Công chứng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) là văn bản pháp lý quan trọng, sau đó là các văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với nội dung xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực công chứng thì Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 (Luật Xử lý vi phạm hành chính) và Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (Nghị định số 82/2020/NĐ-CP) là cơ sở pháp lý quan trọng. Căn cứ quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, có thể xác định các VPHC trong hoạt động công chứng tại Mục 3 bao gồm: Vi phạm quy định về hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên; đề nghị thành lập, đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, đăng ký hành nghề và cấp thẻ công chứng viên (Điều 11); vi phạm quy định liên quan đến công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch (Điều 12); vi phạm quy định của công chứng viên khi nhận lưu giữ di chúc, công chứng di chúc, văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản, văn bản từ chối nhận di sản (Điều 13); vi phạm quy định của công chứng viên về công chứng bản dịch (Điều 14); vi phạm quy định hoạt động hành nghề công chứng (Điều 15); vi phạm quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng (Điều 16); vi phạm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên (Điều 17)[1]

Về cơ bản, các quy định của pháp luật về xử phạt VPHC trong lĩnh vực công chứng góp phần giúp các chủ thể có thẩm quyền xử phạt thuận tiện, nhanh chóng, không lúng túng khi xác định hành vi vi phạm và tiến hành khẩn trương xử phạt. Mặt khác, các quy định khá cụ thể đó cũng giúp cho các công chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng thận trọng, kỹ lưỡng hơn khi hành nghề, bảo đảm tính chuẩn chỉnh của hoạt động công chứng, nâng cao chất lượng và vai trò của công chứng[2].

2. Một số bất cập của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng

Thứ nhất, Mục 3 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP chưa phân định rõ ranh giới giữa xử phạt vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhóm hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản.

Tại Mục 3 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP, một số VPHC trong hoạt động công chứng có sự trùng lặp với hành vi được xem là tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự), đó là các hành vi VPHC trong hoạt động công chứng liên quan đến việc tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản. Cụ thể: (i) Tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch (điểm a khoản 1 Điều 12) bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng; (ii) Sử dụng giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung để được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch (điểm b khoản 1 Điều 12) bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

Trong khi đó, Bộ luật Hình sự cũng có quy định về tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 340). Theo đó, người nào sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch, các loại giấy chứng nhận hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện tội phạm hoặc đã bị xử phạt VPHC về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích, mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Như vậy, đối với trường hợp cá nhân sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch sẽ đối mặt với hai trường hợp: (i) Có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sửa chữa và sử dụng giấy chứng nhận, các tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 340 Bộ luật Hình sự; (ii) Bị xử phạt VPHC theo Nghị định số 82/2020/NĐ-CP (nếu không bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Quy định trên tưởng rằng đã có sự phân định rõ ràng giữa truy cứu trách nhiệm hình sự với xử phạt VPHC về hành vi sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch, tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, hiện nay, pháp luật không quy định rõ trường hợp nào có hành vi sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để được công chứng hợp đồng, giao dịch mà “không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” để người có thẩm quyền tiến hành xử phạt theo quy định tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

Tương tự, trong Nghị định số 82/2020/NĐ-CP còn tồn tại khá nhiều trường hợp VPHC trong hoạt động công chứng có sự trùng lặp với hành vi được xem là tội phạm của Bộ luật Hình sự, có thể kể đến như: (i) Tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chứng viên bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng (điểm a khoản 1 Điều 11). (ii) Tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp trong hồ sơ đề nghị miễn nhiệm công chứng viên bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng (điểm b khoản 1 Điều 11). (iii) Tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chứng viên hoặc thẻ công chứng viên bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng (điểm h khoản 4 Điều 15).

Trong khi đó, Bộ luật Hình sự quy định về tội giả mạo trong công tác, nếu người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm (điểm b khoản 1 Điều 359). So sánh các quy định giữa Nghị định số 82/2020/NĐ-CP và Bộ luật Hình sự, có thể thấy, hành vi vi phạm là giống nhau nhưng chế tài và trách nhiệm pháp lý lại khác nhau. Rõ ràng, trong trường hợp này đã có sự chồng chéo về chế tài hành chính và hình sự khi xử lý những hành vi trên.

Thứ hai, hạn chế trong việc áp dụng hình thức phạt tiền trong hoạt động công chứng khi có tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.

Khi xử phạt VPHC phải căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng có liên quan trong vụ vi phạm. Hiện nay, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định về các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 9 (gồm 08 tình tiết) và các tình tiết tăng nặng tại Điều 10 (gồm 12 tình tiết). Sự xuất hiện của các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng làm thay đổi mức độ trách nhiệm hành chính của chủ thể vi phạm. Nếu có tình tiết giảm nhẹ, chủ thể vi phạm sẽ bị xử phạt thấp hơn so với VPHC thông thường. Ngược lại, nếu có tình tiết tăng nặng, họ sẽ phải bị xử phạt cao hơn[3]. Tuy nhiên, hướng dẫn này vẫn còn chung chung, hơn nữa, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cũng không có quy định nào hướng dẫn xác định mức tiền phạt trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng. Vậy, câu hỏi đặt ra là người có thẩm quyền sẽ dựa vào tiêu chí nào để xác định mức tiền phạt cụ thể trong khi vấn đề này chưa được Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định.

Thứ ba, bất cập khi xem biện pháp “kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung” là biện pháp khắc phục hậu quả đối với các VPHC trong hoạt động công chứng.

Khi xử phạt đối với một VPHC cụ thể, đòi hỏi người có thẩm quyền xử phạt phải thẩm quyền áp dụng đầy đủ các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối với VPHC đó, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì người đó không có thẩm quyền xử phạt (khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính)[4]. Về nội dung này, khi nghiên cứu các VPHC trong hoạt động công chứng thì Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đã dành 05 điều luật để quy định nhóm biện pháp khắc phục hậu quả “kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung” được ghi nhận lần lượt tại các quy định: Điểm a khoản 3 Điều 3, điểm a khoản 4 Điều 11, điểm c khoản 5 Điều 12, điểm a khoản 9 Điều 15, điểm a khoản 8 Điều 16.

Tuy nhiên, việc quy định biện pháp “kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung” là biện pháp khắc phục hậu quả là chưa thỏa đáng vì các lý do sau đây:

(i) Biện pháp này không thể hiện tính quyền lực của người có thẩm quyền xử phạt VPHC. Bởi lẽ, Luật Xử lý vi phạm hành chính không quy định “kiến nghị” trong phạm vi thẩm quyền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt (Điều 38 - Điều 51). Do đó, việc Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định biện pháp này trong phạm vi thẩm quyền của chủ thể xử phạt VPHC là chưa phù hợp.

(ii) Biện pháp này không thể hiện tính cưỡng chế hành chính. Biện pháp khắc phục hậu quả là hình thức cưỡng chế hành chính do Nhà nước tiến hành, buộc chủ thể VPHC phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định nhằm khôi phục lại trật tự quản lý nhà nước đã bị các VPHC xâm hại, đưa các quan hệ pháp luật trở lại tình trạng ban đầu. Khi áp dụng các biện pháp này, chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nước để ban hành các quyết định đơn phương buộc chủ thể vi phạm phải chấp hành. Nếu chủ thể VPHC không tự nguyện chấp hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành[5]. Do đó, việc tồn tại các biện pháp mà bản chất là “kiến nghị”, không thể hiện được tính chất cưỡng chế hành chính - tức là buộc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Bản chất của “kiến nghị” chính là tham mưu, tư vấn, còn có thực hiện hay không lại thuộc về quyền của người được kiến nghị. Với quy định về nhóm biện pháp “kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung”, vô hình trung, Chính phủ đã quy định người có thẩm quyền xử phạt thành người đi tham mưu, tư vấn[6].

Thứ tư, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP không quy định biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên là chưa phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Hiện nay, Điều 17 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên tại khoản 1 và khoản 2 ghi nhận: “1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với Hiệp hội công chứng viên Việt Nam không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hoặc báo cáo khác theo yêu cầu của Bộ Tư pháp; 2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với Hiệp hội công chứng viên Việt Nam không báo cáo Bộ Tư pháp về đề án tổ chức đại hội nhiệm kỳ, phương án nhân sự, kết quả đại hội”. Ngoài ra, 02 vi phạm trên không bị áp dụng bất kỳ biện pháp khắc phục hậu quả nào.

Về nguyên tắc, đối với mỗi VPHC, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức VPHC có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả (điểm a khoản 2 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính). Sở dĩ có quy định như vậy bởi ý định của nhà làm luật là muốn khắc phục triệt để mọi hậu quả do VPHC gây ra. Nói cách khác là không để cho hậu quả xấu của VPHC tồn dư hay ứ đọng trên thực tế[7]. Việc không quy định biện pháp khắc phục hậu quả cho hành vi vi phạm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên dẫn đến thực trạng, người có thẩm quyền bị “trói tay” khi không tìm thấy cơ sở pháp lý vững chắc để xử phạt. Như vậy, trong trường hợp này, việc áp dụng hình thức xử phạt tiền mà không kèm theo biện pháp khắc phục hậu quả là chưa phù hợp, chưa khắc phục được đầy đủ hậu quả do VPHC gây ra.

3. Một số kiến nghị

Một là, để có cơ sở pháp lý rõ ràng cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự và người có thẩm quyền xử phạt VPHC áp dụng pháp luật một cách chính xác, trong bối cảnh Bộ luật Hình sự và Nghị định số 82/2020/NĐ-CP đã có hiệu lực pháp luật thì nhà làm luật cần giải thích cụ thể thế nào là “tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự” nhằm phân định rõ ràng ranh giới giữa xử phạt VPHC và truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc phân định giữa xử phạt VPHC và xử lý hình sự đối với các hành vi “tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản” không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng, chống VPHC liên quan đến hành vi này, mà còn hạn chế tình trạng “hình sự hóa các VPHC”.

Hai là, để bảo đảm việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng có ý nghĩa trong việc xử phạt thì Luật Xử lý vi phạm hành chính cần xem xét bổ sung nguyên tắc xác định mức tiền phạt khi có các tình tiết này. Nhóm tác giả kiến nghị, cần tiếp thu điểm tiến bộ tại khoản 6 Điều 3 Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 49/2016/NĐ-CP ngày 27/5/2016), theo đó: “Trường hợp có một tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì áp dụng mức trung bình tăng thêm hoặc mức trung bình giảm bớt. Mức trung bình tăng thêm được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối đa và mức trung bình. Mức trung bình giảm bớt được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu và mức trung bình. Trường hợp có từ hai tình tiết tăng nặng thì áp dụng mức tối đa của khung phạt tiền. Trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì áp dụng mức tối thiểu của khung tiền phạt”. Có thể thấy, việc xác định mức giảm theo cách thức này vừa giúp chủ thể có thẩm quyền dễ dàng xác định được mức phạt giảm bớt khi có tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, vừa tạo ra được sự phân hóa trách nhiệm hành chính.

Ba là, đối với các VPHC cụ thể, có thể sử dụng hệ thống các hình thức xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp để giải quyết mà không cần đến nhóm biện pháp “kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung hoặc giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung”, cụ thể: Các hành vi tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP: “tẩy xóa, chỉnh sửa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp” (khoản 1 Điều 11, điểm a khoản 1 Điều 12, điểm h khoản 4 Điều 15, điểm a khoản 3 Điều 16); “sử dụng giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung để được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch” (điểm b khoản 1 Điều 12); “công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp thành phần hồ sơ có giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung” (điểm m khoản 2 Điều 15).

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (Nghị định số 118/2021/NĐ-CP) thì: “Đối với giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung, thì phải quy định biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung cho cơ quan, người có thẩm quyền đã cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề, giấy đăng ký hoạt động đó”. Do đó, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP cần quy định các hình thức xử phạt phù hợp và phải thiết kế biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại giấy phép bị tẩy xóa, chỉnh sửa, làm sai lệch nội dung”. Sau khi ban hành quyết định xử phạt, người có thẩm quyền sẽ có văn bản thông báo đến cơ quan đã cấp giấy tờ, văn bằng, giấy phép, chứng chỉ bị tẩy xóa, chỉnh sửa, làm sai lệch nội dung thông tin để cơ quan này giải quyết theo quy định pháp luật.

Bốn là, khoản 5 Điều 4 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP đưa ra các yêu cầu cần phải tuân thủ khi quy định về biện pháp khắc phục hậu quả. Một trong các yêu cầu cần được tuân thủ là “đáp ứng yêu cầu khôi phục lại trật tự quản lý hành chính nhà nước do VPHC gây ra”. Do đó, Chính phủ cần bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả sao cho rõ ràng, đầy đủ và hợp lý đối với các hành vi vi phạm của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Vì thế, nhóm tác giả kiến nghị cần bổ sung biện pháp “buộc thực hiện chế độ báo cáo theo yêu cầu của Bộ Tư pháp” vào Điều 17 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP.

TS. Võ Trung Tín

Giảng viên Khoa Luật Thương Mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

Lê Bá Đức

Học viên Cao học Luật khóa 36, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

[1]. Lê Bích Trân (2021), Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng, http://pbgdpl.camau.gov.vn/hoan-thien-cac-quy-dinh-phap-luat-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-hoat-dong-cong-chung.1029, truy cập ngày 02/5/2023.

[2]. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2021), Thực hiện pháp luật về công chứng, Nxb. Tư pháp, tr. 22 - 23.

[3]. Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2020), Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính - Sách chuyên khảo, Nxb. Thanh niên, tr. 70.

[4]. Nguyễn Nhật Khanh (2020), “Hình thức phạt tiền trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01, tr. 45.

[5]. Cao Vũ Minh (Chủ biên, 2019), Một số biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính - Thực trạng và hướng hoàn thiện (sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 16.

[6]. Cao Vũ Minh (2022), “Minh định bản chất của các biện pháp khắc phục hậu quả trong các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 07, tr. 12.

[7]. Cao Vũ Minh (Chủ biên, 2019), Tlđd, tr. 55.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 386), tháng 8/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm