Thứ bảy 07/06/2025 15:42
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động

Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự đổi mới khi quy định cụ thể nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng nói chung tại Điều 387. Tiếp cận dưới góc độ pháp luật chuyên ngành, có thể thấy, xu hướng luật hóa nghĩa vụ cung cấp thông tin và trách nhiệm pháp lý phát sinh do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động sẽ tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng cho quá trình áp dụng pháp luật.

1. Đặt vấn đề

Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động đặt ra các yêu cầu bắt buộc đối với các chủ thể có ý định giao kết hợp đồng. Họ phải tiến hành những xử sự nhất định hoặc không được tiến hành một số xử sự nhất định; trường hợp các chủ thể làm trái với những yêu cầu của nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng tất yếu dẫn đến trách nhiệm pháp lý nhất định. Điều 2.301 Bộ nguyên tắc Luật Hợp đồng châu Âu (PECL) ghi nhận: “Một bên được tự do đàm phán và không phải chịu trách nhiệm nếu không đạt được thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu họ đã đàm phán hoặc phá vỡ đàm phán một cách không thiện chí và không công bằng thì phải chịu trách nhiệm với những tổn thất đã gây ra cho bên kia. Không thiện chí và không công bằng có nghĩa là một bên bước vào đàm phán nhưng không có ý định đàm phán thực sự để đi tới thỏa thuận cuối cùng với bên kia”. Keit Hain, Lorman Frank cũng có quan điểm tương tự: “Tại thời điểm các bên bắt đầu tiến hành đàm phán, mỗi bên đều đáp ứng được yêu cầu về sự trung thực và công bằng trong việc xây dựng mối quan hệ với bên còn lại”[1]. Như vậy, có thể thấy, nguyên tắc thiện chí và trung thực đã đặt ra nghĩa vụ thông tin khi giao kết hợp đồng. Chủ thể vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng lao động nói riêng sẽ dẫn đến việc phát sinh trách nhiệm pháp lý. Trong Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế xác định: Một bên có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, ép buộc khi cam kết của họ được thiết lập, tuy nhiên, sự đe dọa này phải là cấp thiết, nghiêm trọng và không chính đáng. Có thể thấy, trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ thông tin khi giao kết hợp đồng lao động được xem xét dựa trên mối quan hệ nhân quả, biện chứng giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng và sự gánh chịu trách nhiệm bất lợi; trong đó, hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng xuất hiện trước về mặt thời gian và tất yếu dẫn đến kết quả là các chủ thể phải gánh chịu sự bất lợi tương ứng.

2. Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động

2.1. Quy định chung về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng

Thông tin là một yếu tố đặc biệt quan trọng khi giao kết hợp đồng; các bên tham gia đàm phán hợp đồng cần thông tin để xem xét, lựa chọn lĩnh vực giao kết hợp đồng, giúp thỏa mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần của các bên[2]. Thông tin giúp các bên hiểu rõ về nhau cũng như sản phẩm (đối tượng) các bên hướng tới đàm phán, định hướng cho họ lựa chọn phạm vi phù hợp để giao kết hợp đồng. Thông tin là sức mạnh vì thông tin định hướng hành vi con người[3]. Nguyên tắc chi phối đến nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng thể hiện rõ ở khoản 3 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015: Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. Sự thiện chí trong cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng là “điều kiện cần” trong nghĩa vụ cung cấp thông tin, còn trung thực được xem là “điều kiện đủ” trong nghĩa vụ cung cấp thông tin. Thông tin trung thực là những thông báo được gửi đi đúng với sự thật, không làm sai lệch đi so với sự vốn có của nó[4]. Theo nghĩa rộng, nghĩa vụ trung thực trong cung cấp thông tin bao gồm cả việc thông báo được gửi đi đúng với sự thật và gửi đầy đủ các thông tin mà bên chiếm ưu thế có được. Trong phạm vi rộng, trung thực thông tin hàm chứa cả tính chất của thiện chí khi cung cấp thông tin phục vụ cho giao kết hợp đồng.

Như vậy, có thể thấy rằng, với nguyên tắc trung thực, thiện chí khi cung cấp thông tin giao kết hợp đồng được ghi nhận tại những điều luật đầu tiên của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã chứng tỏ pháp luật chung về hợp đồng đặc biệt coi trọng loại nghĩa vụ này.

Bên cạnh đó, Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn ghi nhận: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết… Bên vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều 387 đã minh thị về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng phải là những “thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên, thông tin này bao gồm những thông tin nào thì Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa đề cập. Trên thực tế, việc quy định cụ thể loại thông tin nào là rất khó cho nhà làm luật vì với mỗi loại hợp đồng thì thông tin cần cung cấp có thể rất khác nhau. Chính vì vậy, với vai trò là pháp luật chung về hợp đồng, Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ nêu lên vai trò của loại thông tin này đối với bên được cung cấp thông tin là các thông tin này ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của một bên. Tuy nhiên, việc quy định như vậy có thể dẫn tới tranh chấp giữa các bên.

2.2. Quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động

Trên cơ sở Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015, cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động được quy định là nghĩa vụ của cả người sử dụng lao động và người lao động. Việc cung cấp thông tin của hai bên bảo đảm cho phía bên kia biết được các thông tin cơ bản nhất, để người lao động biết người sử dụng lao động có đáp ứng được các yêu cầu của người lao động hay không, đặc biệt là vấn đề tiền lương và điều kiện làm việc cũng như để người sử dụng lao động đánh giá người lao động có đáp ứng được các điều kiện mà người sử dụng lao động đặt ra khi tuyển dụng hay không. Điều này sẽ bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng sau này đúng theo nguyên tắc tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật Lao động năm 2019: Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực. So với Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật Lao động năm 2019 đã bổ sung yêu cầu thông tin được cung cấp phải trung thực. Ngoài những loại thông tin cụ thể được liệt kê, Điều 16 Bộ luật Lao động năm 2019 còn quy định mỗi bên có nghĩa vụ cung cấp cho bên kia những thông tin khác “liên quan trực tiếp đến việc giao kết hợp đồng lao động” nếu được bên kia yêu cầu. Quy định này khá tương đồng với đoạn 3 Điều 112-1 Bộ luật Dân sự năm 2016 của Pháp: “Thông tin có tầm quan trọng mang tính quyết định là những thông tin có mối liên hệ trực tiếp và cần thiết tới nội dung hợp đồng hoặc với tư cách của các bên, Tòa án có trách nhiệm giải thích mối liên hệ trực tiếp và cần thiết này”. Theo đó, Điều 16 Bộ luật Lao động năm 2019 được đánh giá là hợp lý, vì quan hệ lao động liên quan đến nhiều vấn đề mà nhu cầu của các bên thì rất đa dạng, Bộ luật Lao động năm 2019 không thể liệt kê được hết những vấn đề mà mỗi bên có nhu cầu cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động. Tuy nhiên, đây lại là quy định mang tính chất định tính và khó xác định trên thực tế.

3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động và những vấn đề cần hoàn thiện

3.1. Quy định chung về trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng

Thông tin khi giao kết hợp đồng liên quan đến quyết định giao kết hợp đồng nên việc vi phạm nghĩa vụ này được coi là một sai phạm và chế tài cho việc vi phạm này có thể là hợp đồng vô hiệu. Trách nhiệm pháp lý từ hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hợp đồng được tìm thấy trong pháp luật các nước Anh, Pháp, Mỹ hay trong Điều 4.107 PECL và Điều 3.8 Bộ nguyên tắc của Unidroit[5]. Tại Việt Nam, trên cơ sở Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng vô hiệu có thể được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng giao kết do bị lừa dối (hành vi này có thể xuất hiện trong hợp đồng nhưng cũng có thể phát sinh từ giai đoạn các bên đàm phán giao kết hợp đồng).

Ngoài ra, theo quy định chung về hợp đồng tại Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015, bồi thường thiệt hại là trách nhiệm pháp lý phát sinh do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng. Có thể thấy, nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng là loại nghĩa vụ do luật định, vì vậy, khi vi phạm nghĩa vụ này sẽ phát sinh trách nhiệm ngoài hợp đồng. Do đó, vi phạm nghĩa vụ này sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng khá lớn của hệ thống pháp luật Civil law nên quan điểm về bồi thường thiệt hại khi giao kết hợp đồng như nêu trên hoàn toàn dễ hiểu. Trên thực tế, các Tòa án khi giải quyết những vụ việc liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin cũng viện dẫn đến các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng[6]. Tuy nhiên, quy định hiện nay về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ.

Như vậy, khi một bên tham gia giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu. Tuy nhiên, Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 trực tiếp điều chỉnh hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin giao kết hợp đồng chỉ ghi nhận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không quy định hợp đồng có vô hiệu hay không? Điều luật này có thể hiểu theo hướng, hành vi không cung cấp thông tin không vi phạm yếu tố tự nguyện trong xác lập giao dịch chỉ đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, để phù hợp hơn với pháp luật các nước, Bộ luật Dân sự năm 2015 cần quy định rõ hơn theo hướng, không chỉ hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng mà cả hành vi vi phạm nghĩa vụ thông tin khi giao kết hợp đồng cũng có thể bị tuyên vô hiệu.

3.2. Quy định về trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động

Theo điểm b khoản 1 Điều 49 Bộ luật Lao động năm 2019, vi phạm nguyên tắc “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí và trung thực” sẽ dẫn đến hợp đồng lao động vô hiệu toàn bộ. Có thể thấy, nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động gắn bó mật thiết và được xây dựng từ nguyên tắc thiện chí và trung thực. Vì vậy, vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin có thể dẫn đến hậu quả pháp lý là hợp đồng lao động vô hiệu. Tuy nhiên, cùng là vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng nhưng theo quy định chung về hợp đồng tại Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trách nhiệm pháp lý tương ứng là bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra, còn pháp luật lao động lại đặt ra trách nhiệm pháp lý là hợp đồng vô hiệu tương tự như nội dung của chế định giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vậy, hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động mà gây ra thiệt hại cho bên còn lại thì có áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại giống như quy định tại Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015 hay không, đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng? Mức bồi thường và cách xác định thiệt hại ra sao? Hơn nữa, Điều 51 Bộ luật Lao động năm 2019 về xử lý hợp đồng lao động vô hiệu mới chỉ dừng lại ở việc quy định rất khái quát: “… 2. Khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động được giải quyết theo quy định của pháp luật; trường hợp do ký sai thẩm quyền thì hai bên ký lại; 3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”. Vậy, khi hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ, người lao động và người sử dụng lao động có ký lại hợp đồng lao động hay không? Nếu ký lại, quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động kể từ khi bắt đầu làm việc theo hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu cho đến khi hợp đồng lao động được ký lại xử lý như thế nào? Trường hợp hai bên không ký lại hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì xử lý hậu quả như thế nào[7]? Đây là những vấn đề mà nghị định của Chính phủ cần có hướng dẫn cụ thể hơn.

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng lao động là một chủ đề không mới. Theo các quy định hiện hành, trách nhiệm pháp lý được áp dụng cho hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng là hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với các quy đinh chung về hợp đồng đã đặt ra những vấn đề cần có hướng dẫn cụ thể hơn./.

TS. Đỗ Thị Hoa

Khoa Luật - Trường Đại học Thương mại

[1]. Nguyễn Thị Kiều Linh, “Nghĩa vụ tiền hợp đồng và điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong bối cảnh sửa đổi Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Luật học, số đặc biệt, tháng 6/2015.

[2]. Lê Trường Sơn (2015), “Nghĩa vụ bảo mật thông tin có được trong giai đoạn tiền hợp đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, tr. 26.

[3]. Nguyễn Như Phát, Lê Thị Thu Thủy (2003), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 22.

[4]. http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Trung_th%E1%BB%B1c, truy cập ngày 15/12/2023.

[5]. https://iluatsu.com/dan-su/he-qua-phap-ly-do-vi-pham-nghia-vu-cung-cap-thong-tin-tien-hop-dong/.

[6]. Đỗ Văn Đại (2007), “Nghĩa vụ thông tin trong pháp luật hợp đồng Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tr. 36.

[7]. Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Văn Bình (2021), “Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2019”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 147 - 148.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 400), tháng 3/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm