Chủ nhật 08/06/2025 12:07
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ - Quan niệm thế nào về "huyết thống" và "mẹ"

Mang thai hộ được hiểu là một người phụ nữ này mang thai cho một cặp vợ chồng khác trên cơ sở lấy trứng (noãn) của người vợ và tinh trùng của người chồng bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phát triển thành phôi, phôi này được cấy trở lại dạ con của người phụ nữ mang thai hộ, sau khi sinh, người phụ nữ này phải trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Về mặt sinh học, mang thai hộ không có sự di truyền giữa người phụ nữ mang thai và đứa trẻ, đứa trẻ sẽ mang gen của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, là máu mủ, ruột thịt, là huyết thống của cặp vợ chồng nhờ mang thai.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Để hướng dẫn thi hành những điều liên quan đến vấn đề mang thai hộ, ngày 28/01/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15/3/2015. Có thể thấy, những vấn đề pháp lý liên quan đến mang thai hộ đi vào cuộc sống chưa lâu, bản thân những quy phạm pháp luật này cũng chưa bộc lộ hết những hiệu quả cũng như những hạn chế của nó. Ở phương diện lý luận, cần thiết phải hiểu và hiểu đúng điều mà những quy phạm pháp luật này chứa đựng, bởi lẽ, quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh hết sức phức tạp và nhạy cảm, nó liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp, các quyền nhân thân của con người, đến các mối quan hệ xã hội của con người trong đời sống thực tiễn.

Bài viết này không tìm hiểu về những quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề mang thai hộ, điều kiện mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của người có liên quan hay xử lý tranh chấp, vi phạm về mang thai hộ. Vấn đề cần làm rõ ở đây là luận giải, phân tích, từ đó đi đến thống nhất trong cách nhận thức khái niệm thế nào là “mẹ”, là “huyết thống” từ chế định mang thai hộ. Bởi lẽ, những khái niệm này liên quan trực tiếp đến những quy phạm pháp luật, quan hệ xã hội, quyền nhân thân của con người.

Về mặt sinh học, để gọi là mẹ thì bản thân người đó phải là người trực tiếp sinh nở ra chính con (đàn con) của mình; về mặt xã hội, ngoài yếu tố sinh học thì nó còn bao gồm cả ý nghĩa không những là người trực tiếp sinh ra mà nó bao hàm công nuôi dưỡng, công dưỡng dục. Trong nhận thức của con, người mẹ trước tiên là đấng sinh thành, sau đó là dưỡng dục, chưa bao giờ và không có ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam này lại có sự phủ nhận về việc người đẻ ra chính đứa con của mình lại không được quyền xưng là mẹ của đứa trẻ đó và càng không có chuyện đứa trẻ từ chối gọi người sinh ra mình là mẹ. Trong mối quan hệ mẹ - con này, việc sinh đẻ của người mẹ vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm không thể tách rời, không thể chuyển hóa sang cho người khác được. Đó là quyền tự nhiên của chính bản thân người phụ nữ khi sinh nở, cũng là quyền tự nhiên của đứa trẻ khi chào đời, chúng ta chỉ có thể thừa nhận và bảo vệ nó trong đời sống thực tiễn.

Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ, kể từ thời điểm con được sinh ra”. Với việc quy định như vậy, chúng ta đã đương nhiên phủ nhận hoàn toàn quyền tự nhiên vốn có của người phụ nữ (người mang thai sinh ra đứa trẻ), tước đi quyền làm mẹ của bản thân họ và cũng tước đi nghĩa vụ, bổn phận làm con đối với đấng sinh thành. Chúng ta không nghĩ đến quan hệ của đứa trẻ và người sinh ra nó trong trường hợp mang thai hộ, quan hệ đó là quan hệ gì, đứa trẻ sẽ gọi người sinh ra nó là gì, sau này khi lớn lên, đứa trẻ biết được ai là người sinh ra mình, liệu nó có quyền gọi đó là mẹ của mình hay không? Nếu đứa trẻ gọi người sinh ra nó là mẹ thì lại không đúng vì pháp luật không cho phép, không thừa nhận, nếu không gọi thì dư luận xã hội lên án cho nó là người bội bạc, nhẫn tâm, thiếu đạo đức. Nhất là chúng ta lại quy định “người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng”[1]. Đứa trẻ sẽ lớn lên như thế nào trong mối quan hệ phức tạp đó? Trong khoa học pháp lý, chúng ta chỉ có khái niệm về mẹ đẻ, mẹ vợ và mẹ nuôi (ngoài ra còn có các từ để gọi mẹ như bu, bầu, bầm, mế… là cách gọi của địa phương, nhưng cũng chỉ là cách gọi khác đi của từ mẹ đẻ). Trong quá trình sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thảo luận về vấn đề mang thai hộ, có ý cho rằng, nên gọi người phụ nữ mang thai hộ là “mẹ mang thai hộ”. Có ý kiến đồng tình nhưng phần nhiều là phản đối, bởi lẽ, trong nhận thức của con người, thì không có khái niệm nào là mẹ mang thai hộ và càng không thể gọi người mang thai hộ là mẹ. Luận giải, phân tích về vấn đề này không phải bác bỏ hay không ủng hộ chế định mang thai hộ, mà là để thấy được sự phức tạp, khó khăn của vấn đề, để có cái nhìn chính xác hơn, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp. Bởi lẽ, làm rõ và hiểu đúng nội hàm của khái niệm “mẹ” còn liên quan đến vấn đề huyết thống.

Huyết thống được hiểu là quan hệ máu mủ, ruột thịt với nhau[2]. Như vậy, huyết thống trước hết là quan hệ về di truyền sinh học, là quan hệ giữa cha, mẹ và con. Về mặt sinh học, con là kết quả của quá trình thụ tinh giữa tinh trùng của người cha và trứng (noãn) của người mẹ, phát triển thành phôi, phôi đó được chính bản thân người mẹ nuôi dưỡng bằng các chất dinh dưỡng được truyền trong máu thông qua dây rốn và quá trình nuôi dưỡng đó trải qua một thời gian nhất định (chín tháng mười ngày), phôi đó phát triển hoàn thiện thành con người. Người mẹ phải trải qua một quá trình sinh nở hết sức khó khăn, thậm chí là nguy hiểm tới tính mạng của mình để sinh ra được đứa con. Huyết thống còn được hiểu là quan hệ ruột thịt với nhau như quan hệ anh chị và em, ông bà và cháu, cô, dì, chú, bác, cậu với các cháu, không có một quy định nào nói là quan hệ đến đời thứ mấy thì không còn được gọi là huyết thống, những quan hệ ruột thịt như vậy còn được gọi là quan hệ họ hàng.

Phải khẳng định rằng, quan hệ giữa đứa trẻ sinh ra và người mang thai hộ là quan hệ huyết thống. Từ quan niệm, cách nhìn nhận của xã hội, thì quan hệ đó không thể là quan hệ gì khác ngoài quan hệ mẹ - con. Tuy nhiên, quan hệ đó không được phản ánh trong khoa học pháp lý, dường như các nhà làm luật đã bỏ qua hoặc lờ đi mối quan hệ đó. Nếu đây không phải là quan hệ mẹ - con thì là quan hệ gì? Chắc chắn đó không phải là quan hệ xã hội thông thường. Việc xác định là quan hệ gì còn liên quan đến các quyền nhân thân, quyền dân sự, chính trị, các quan hệ xã hội mà đứa trẻ đó sẽ phải tham gia, ứng xử trong suốt cuộc đời của mình.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng. Nếu như em gái hoặc chị gái mang thai hộ cho anh trai hoặc em trai mình thì hiện tượng này không phù hợp với quan niệm xã hội, trái với luân thường đạo lý, đi ngược lại với những quan niệm về chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán và bản thân nó có thể chứa đựng trong đó những yếu tố “loạn luân”. Bởi lẽ, không phải ở đâu hay người nào cũng nhận thức được đó chỉ là đẻ hộ, nhờ hay là mượn bụng của em gái (chị gái) để nuôi dưỡng bào thai đó trong một thời gian nhất định, nhất là đa phần người dân nông thôn chưa hiểu ý nghĩa của việc mang thai hộ cũng như phương pháp, kỹ thuật mang thai hộ. Họ chỉ nghĩ một cách đơn giản là những người trong họ hàng mà có con với nhau là loạn luân.

Từ phân tích trên, việc quy định đối tượng nào đủ điều kiện mang thai hộ là hết sức phức tạp, ảnh hưởng rất nhiều đến nhận thức của con người, đặc biệt là những quan niệm về “mẹ” và “huyết thống”. Không phải vì những yếu tố phức tạp đó mà chúng ta bỏ qua những ý nghĩa nhân văn, nhân đạo to lớn từ chế định mang thai hộ đem lại. Nếu vẫn quy định đối tượng mang thai hộ là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng thì cần thiết phải có sự tuyên truyền, phổ biến để mọi người hiểu đúng hơn, thậm chí là hiểu thêm về nội hàm của khái niệm “mẹ” và “huyết thống” trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, những gì đã ăn sâu vào trong tiềm thức của con người, hiện hữu trong đời sống con người hàng ngàn năm nay thì không phải dễ mà thay đổi được trong tương lai gần. Nên chăng, chúng ta không quy định điều kiện “là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng” nữa, mà có thể là bạn bè hoặc một đối tượng nào đó do người nhờ mang thai hộ tìm kiếm và lựa chọn ở ngoài xã hội sẽ hợp lý hơn. Như vậy, chúng ta sẽ không có những băn khoăn về các mối quan hệ phát sinh từ chế định mang thai hộ, từ đó, chúng ta cũng sẽ có cách hiểu chính xác hơn như thế nào là “mẹ” và “huyết thống”.

Nguyễn Văn Lâm

Tài liệu tham khảo:

[1] Điểm a khoản 3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2] Đại Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998, tr. 858.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm