Thứ ba 10/06/2025 12:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vấn đề thu nhập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử trong tố tụng hình sự

Bài viết tập trung phân tích, trao đổi quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử, trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng.

1. Dẫn nhập

Trong tố tụng hình sự (TTHS) thì chứng cứ và chứng minh là những vấn đề rất quan trọng, quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự (VAHS). Xác định tài liệu đồ vật nào là chứng cứ, có giá trị chứng minh và việc đánh giá, sử dụng chứng cứ như thế nào trong quá trình tố tụng có ý nghĩa quyết định đến việc giải quyết VAHS.

Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Với tư cách là một nguồn chứng cứ trong TTHS, dữ liệu điện tử (DLĐT) được hiểu là những phản ánh vật chất tồn tại dưới dạng kỹ thuật số, lưu trữ trong các phương tiện điện tử hoặc trên mạng máy tính, mạng viễn thông, góp phần phản ánh một cách khách quan, trung thực những tình tiết, diễn biến trong VAHS hoặc có liên quan đến VAHS nào đó đã xảy ra. Ở trạng thái tự nhiên, DLĐT có trong các thiết bị, phương tiện điện tử hoặc được truyền đi, tiếp nhận từ các thiết bị, phương tiện điện tử, khi thông qua một phần mềm thích hợp (tương thích) thì các DLĐT sẽ biểu hiện dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự mà con người có thể nhận biết được bằng các giác quan. DLĐT được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng, bảo đảm các thuộc tính của chứng cứ được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết VAHS theo quy định của pháp luật.

2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về chứng cứ từ nguồn giữ liệu điện tử

Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các loại nguồn chứng cứ, trong đó có DLĐT. Theo đó, từ các DLĐT, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (THTT) có thể thu thập được các loại chứng cứ dùng để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết VAHS. Theo Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: “DLĐT là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”. Đây là nguồn chứng cứ mới được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đòi hỏi phải có cách hiểu đúng để có biện pháp thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ phù hợp, nhằm tạo tiền đề cho việc giải quyết đúng đắn VAHS, đặc biệt là các vụ án trong lĩnh vực công nghệ cao, những vụ án có sử dụng công nghệ thông tin là công cụ, phương tiện phạm tội.

Trên cơ sở tìm hiểu quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng pháp luật về thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT, tác giả có một số nhận xét như sau:

Thứ nhất, về thu thập chứng cứ từ nguồn DLĐT:

Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền THTT có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân “cung cấp… DLĐT” (khoản 1 Điều 88). Ngoài ra, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ bằng cách đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân “cung cấp… DLĐT” (khoản 2 Điều 88). Về phía những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào cũng đều có thể “đưa ra… DLĐT” (khoản 3 Điều 88).

Bên cạnh những quy định chung về thu thập chứng cứ nêu trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn có quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (TTĐB) liên quan đến việc thu thập chứng cứ từ nguồn DLĐT. Với biện pháp “thu thập bí mật DLĐT” thì đương nhiên chứng cứ này cũng từ nguồn DLĐT. Tuy nhiên, với các biện pháp “ghi âm, ghi hình bí mật” (khoản 1 Điều 223) hay “nghe điện thoại bí mật” (khoản 2 Điều 223) thì thông tin, tài liệu được lưu giữ là hình ảnh, âm thanh lưu trong các băng từ, đĩa từ, các phương tiện điện tử thì xếp vào loại nguồn chứng cứ nào là vấn đề cần trao đổi.

Nếu xếp các loại thông tin đó vào nguồn DLĐT thì không phù hợp với sự phân loại về biện pháp thu thập. Dẫn đến có thể hiểu biện pháp “thu thập bí mật DLĐT” đã bao gồm cả hai biện pháp “ghi âm, ghi hình bí mật” và “nghe điện thoại bí mật”. Ngược lại, nếu đưa kết quả thu thập từ hai biện pháp điều tra TTĐB “ghi âm, ghi hình bí mật” và “nghe điện thoại bí mật” về nguồn chứng cứ vật chứng thì vẫn chưa phù hợp vì những “vật chứng” này lại có thể được xem là DLĐT.

Ngoài ra, Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định về “thu thập phương tiện điện tử, DLĐT”. Tuy nhiên, những quy định của điều luật này lại cho thấy chưa thực sự khoa học và thậm chí còn có sự mâu thuẫn, khó hiểu. Trước hết, quy định của điều luật cho thấy có “thu thập phương tiện điện tử” và “thu thập DLĐT”. Theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc thu thập phương tiện điện tử được hiểu là “thu giữ” phương tiện điện tử hoặc “sao lưu” đối với “phương tiện lưu trữ DLĐT”. Rõ ràng “thu thập” và “thu giữ” không thể hoàn toàn giống nhau và phương tiện điện tử cũng khác với phương tiện lưu trữ DLĐT. Đồng thời, theo quy định của điều luật có thể hiểu là thu thập DLĐT không bao gồm “chặn thu, sao lưu” DLĐT. Vì vậy, nếu chỉ căn cứ điều luật về “thu thập phương tiện điện tử, DLĐT” thì rất khó hiểu như thế nào là thu thập DLĐT. Việc thu thập chứng cứ từ nguồn DLĐT phải bảo đảm các nguyên tắc chung của TTHS. Trong đó có “bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân” (Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Để bảo đảm nguyên tắc trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định mới liên quan đến hoạt khám xét DLĐT: “Khi có căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín… DLĐT có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, DLĐT” (khoản 2 Điều 192). Như vậy, khi có căn cứ để nhận định “trong DLĐT” có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án thì có thể “khám xét DLĐT”. Quy định này cho thấy, căn cứ khám xét DLĐT còn chưa rõ ràng khi có sự gộp chung các căn cứ khám xét khác.

Quá trình thu thập chứng cứ về mặt khoa học luật TTHS gồm có phát hiện, ghi nhận và bảo quản chứng cứ. Tuy nhiên, thuật ngữ “bảo quản chứng cứ” không được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Về mặt khoa học, bảo quản chứng cứ là giữ cho chứng cứ được tính nguyên vẹn như khi ta thu giữ, không làm mất, làm hỏng, làm biến dạng hay sai lệch sự thật. Việc bảo quản chứng cứ suy cho cùng là bảo quản nguyên vẹn các nguồn chứng cứ, bảo quản các thuộc tính của chứng cứ. Đối với chứng cứ từ nguồn DLĐT, việc bảo quản cũng giống như bảo quản chứng cứ từ các nguồn khác: “… DLĐT, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong phải được bảo quản nguyên vẹn” (Điều 199 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Bên cạnh đó, do tính đặc biệt của DLĐT mà việc bảo quản cũng có thể giống như bảo quản vật chứng: “Phương tiện điện tử, DLĐT được bảo quản như vật chứng theo quy định của Bộ luật này” (khoản 5 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Việc thu thập, bảo quản chứng cứ từ nguồn DLĐT cần phải tuân thủ những quy định chung về thu thập chứng cứ, đồng thời phải cũng phải bảo đảm đúng quy định về việc “thu thập phương tiện điện tử, DLĐT” theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những quy định cụ thể về thu thập, bảo quản chứng cứ từ nguồn DLĐT trong trường hợp phục hồi dữ liệu trên các phương tiện lưu trữ DLĐT bị xóa, bị ghi đè… Ngoài ra, trước sự phát triển của khoa học còn cho thấy việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện, ghi nhận và bảo quản chứng cứ từ nguồn DLĐT cũng là hoạt động rất cần thiết nhưng cũng chưa có những quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ hai, về kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ nguồn DLĐT:

Chứng cứ từ nguồn DLĐT hay từ bất cứ nguồn nào cũng đều phải được kiểm tra, đánh giá theo quy định chung của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết VAHS” (khoản 1 Điều 108). Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ nói chung và chứng cứ từ nguồn DLĐT thuộc về trách nhiệm của người có thẩm quyền THTT: “Người có thẩm quyền THTT trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án” (khoản 2 Điều 108).

Để kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp của chứng cứ từ nguồn DLĐT đòi hỏi người có thẩm quyền phải kiểm tra ngoài việc bảo đảm thông tin, tài liệu đó đúng nguồn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, còn phải bảo đảm biện pháp thu thập đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục mà Bộ luật này quy định. Người có thẩm quyền thu thập DLĐT không chỉ là người có thẩm quyền THTT mà còn có người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Riêng đối với chứng cứ từ nguồn DLĐT do tiến hành biện pháp điều tra TTĐB còn đòi hỏi phải có quyết định áp dụng biện pháp điều tra TTĐB được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ nếu xét thấy không còn cần thiết. Tuy nhiên, thời hạn để Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra TTĐB là bao lâu thì chưa được quy định cụ thể.

Kiểm tra, đánh giá tính xác thực hay còn gọi là tính khách quan của chứng cứ từ nguồn DLĐT chính là kiểm tra, đánh giá các thông tin, tài liệu phản ánh từ DLĐT có thực sự khách quan. Thông thường, những thông tin phản ánh từ DLĐT thường có tính khách quan rất cao. Tuy nhiên, các đối tượng cũng có thể dựa vào đặc điểm này mà cố tình đưa những thông tin giả vào DLĐT để đánh lừa những người có thẩm quyền khi kiểm tra, đánh giá tính khách quan của chứng cứ từ nguồn DLĐT.

Kiểm tra, đánh giá tính liên quan của chứng cứ từ nguồn DLĐT là kiểm tra, đánh giá về giá trị chứng minh của những thông tin, tài liệu thu thập hợp pháp và khách quan từ các hoạt động có thể chứng minh được vấn đề nào trong VAHS; thông tin, tình tiết được phản ánh đó liên quan một cách trực tiếp hay gián tiếp vấn đề phải chứng minh trong VAHS.

Song song với quá trình kiểm tra chứng cứ đó là hoạt động đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy của người THTT, dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm nhằm xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đã thu được. Việc đánh giá chứng cứ từ nguồn DLĐT cũng phải tuân theo những nguyên tắc và phương pháp chung của đánh giá chứng cứ. Thực tiễn cho thấy, những thông tin, tài liệu có được từ nguồn DLĐT thường là những chứng cứ trực tiếp, cho thấy ngay đối tượng cần chứng minh. Tuy nhiên, cũng không loại trừ vì một lý do nào đó mà đối tượng biết mình đang bị theo dõi nên đưa ra những thông tin giả gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Vì vậy, việc đánh giá chứng cứ từ nguồn DLĐT cần hết sức khách quan, toàn diện. Nó phụ thuộc rất lớn vào ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm của những người có thẩm quyền.

Thứ ba, về sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT:

Về mặt khoa học: Sử dụng chứng cứ là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền THTT dùng các thông tin, tài liệu đã bảo đảm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp đế kết luận về các vấn đề của VAHS. Tuy nhiên, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có thuật ngữ về “sử dụng chứng cứ” nói chung mà chỉ có những quy định liên quan đến việc sử dụng chứng cứ từ biện pháp điều tra TTĐB và những quy định về sử dụng các nguồn chứng cứ, trong đó có nguồn DLĐT.

Trước hết, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về việc sử dụng chứng cứ từ biện pháp điều tra TTĐB là “thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra TTĐB chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS; thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ án phải tiêu hủy kịp thời. Nghiêm cấm sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được vào mục đích khác” (khoản 1 Điều 227).

Việc sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT không chỉ qua biện pháp điều tra TTĐB mà còn do nhiều hoạt động và nhiều chủ thể khác tiến hành. Vì vậy, bên cạnh những quy định về sử dụng chứng cứ nói chung, chứng cứ từ biện pháp điều tra TTĐB nói riêng, việc sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT cũng có những điểm riêng của nó, bởi vì: “Giá trị chứng cứ của DLĐT được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi DLĐT; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của DLĐT; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác” (khoản 3 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Khác với chứng cứ truyền thống, giá trị sử dụng của chứng cứ từ nguồn DLĐT không chỉ được dựa trên kết quả kiểm tra, đánh giá về các thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp mà còn phải dựa vào cả tiêu chí về cách thức bảo đảm, duy trì tính toàn vẹn của thông điệp DLĐT và cách xác định của người khởi tạo thông điệp đó hoặc các yếu tố phù hợp khác. Cho dù việc thu được DLĐT có khách quan, liên quan và hợp pháp nhưng nếu không được sử dụng phần mềm thích hợp, không có thiết bị và phương tiện điện tử thích hợp, hay không có người có khả năng sử dụng thiết bị, phương tiện và phần mềm thì cũng không thể thấy, không thể nhận biết được các thông điệp của thông tin là chữ viết, chữ số, ký hiệu, âm thanh, hình ảnh hoặc dạng tương tự. Vì vậy, cũng không được dùng làm chứng cứ.

Trong thực tiễn, việc sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT hiện nay vẫn đang còn nhiều quan điểm cá nhân khác nhau của những người có thẩm quyền THTT và người tham gia tố tụng. Về phía người có thẩm quyền THTT thường đặt ra là sau khi thu thập DLĐT có cần giám định, nhận dạng lại âm thanh, hình ảnh… ngay cả khi tiến hành biện pháp điều tra TTĐB hay không. Về phía người tham gia tố tụng thì yêu cầu phải đưa ra tất cả DLĐT mà không chỉ phần bất lợi cho họ. Thế nhưng, nếu đưa ra tất cả DLĐT thu được thì lại có thể làm lộ bí mật, làm ảnh hưởng quyền lợi cá nhân… Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục trích xuất chứng cứ từ nguồn DLĐT.

Trong một thời gian dài, Nhà nước ta có thừa nhận biện pháp nghiệp vụ điều tra bí mật, có sử dụng những ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử để đấu tranh với tội phạm nhưng vẫn chưa được sử dụng công khai trong TTHS hoặc có sử dụng thì tên gọi cũng chưa được thống nhất nên việc áp dụng pháp luật ở mỗi nơi cũng có khác nhau.

3. Một số đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ từ nguồn dữ liệu điện tử

Kể từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời và có hiệu lực pháp luật, chứng cứ từ nguồn DLĐT chính thức được thừa nhận, góp phần cho công tác điều tra phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm hoạt động qua mạng có được nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện những quy định pháp luật liên quan để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT như sau:

Thứ nhất, các nhà làm luật cần xây dựng các chế định trong TTHS, dân sự, hành chính liên quan đến chứng cứ từ nguồn DLĐT bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ trong cả ba hệ thống tố tụng như về khái niệm DLĐT, về các hoạt động tố tụng liên quan đến thu thập DLĐT như khám nghiệm hiện trường, khám xét, tương trợ tư pháp, việc tìm kiếm, phát hiện, phục hồi, thu thập, bảo quản, đánh giá, sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT.

Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn thống nhất hoặc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về thu thập nguồn chứng cứ có được từ biện pháp điều tra TTĐB trong TTHS theo hướng các thông tin, tài liệu về âm thanh, hình ảnh thu thập được từ biện pháp ghi âm bí mật, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật cũng được xem là nguồn chứng cứ DLĐT.

Thứ ba, cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện những quy định tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng hoàn thiện các cụm từ “thu thập”, “thu giữ”, “phương tiện điện tử”, “phương tiện lưu trữ DLĐT”. Đặc biệt, cần hoàn thiện quy định về thu thập DLĐT theo hướng thu thập DLĐT bao gồm cả thu giữ, chặn thu, sao lưu, phục hồi DLĐT trên phương tiện điện tử, trên đường truyền… để hạn chế việc sử dụng từ ngữ lặp lại không thống nhất, gây khó hiểu trong áp dụng pháp luật.

Thứ tư, cần nghiên cứu, bổ sung những quy định về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo để phát hiện, thu thập chứng cứ, bảo quản, đánh giá và sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT cần có những khung pháp lý cụ thể.

Thứ năm, cần có quy định bổ sung về vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của người có thẩm quyền THTT và lực lượng làm công tác chuyên môn có liên quan đến việc thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ từ nguồn DLĐT cũng như trong khi áp dụng biện pháp điều tra TTĐB. Bởi vì, những thông tin từ nguồn DLĐT rất lớn, có thể liên quan bí mật điều tra, bí mật đời tư… Việc để lộ, lọt những thông tin từ nguồn DLĐT nhất là khi tiến hành biện pháp điều tra TTĐB không chỉ làm cho đối tượng cảnh giác, tìm cách đối phó, tạo ra thông tin sai lệch, đánh lạc hướng cơ quan có thẩm quyền THTT hay có biểu hiện chống đối… mà còn có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác.

Thứ sáu, cần có hướng dẫn về thành phần, quy trình tiến hành việc kiểm tra, cắt, trích, sao chép thông tin về âm thanh, hình ảnh từ nguồn DLĐT, đặc biệt là từ kết quả tiến hành biện pháp điều tra TTĐB để sử dụng làm chứng cứ theo hướng thành phần tham gia phải có điều tra viên, kiểm sát viên, các chuyên gia kỹ thuật có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm liên quan đến biện pháp điều tra TTĐB được áp dụng. Trong trường hợp cần thiết, có thể cho người bào chữa, người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác cùng tham gia./.

PGS. TS. Hoàng Minh Đức

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm