Thứ năm 19/06/2025 10:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vấn đề tranh tụng trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm

Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau.

1. Nền tảng lý luận và thực tiễn về tranh tụng trong tố tụng hình sự

1.1. Những nền tảng lý luận về tranh tụng trong tố tụng hình sự
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy, về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại Tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra như một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết thúc phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng[1].

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi ở nước ta trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”[2]. Tiếp đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”[3]. Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.

Vậy, vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật[4].

Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta cần ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự để phân định rõ chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử giữa các bên và Tòa án. Mặt khác, trong Bộ luật Tố tụng hình sự cũng cần quy định đầy đủ và cụ thể các điều kiện pháp lý cần thiết để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Hình sự không đồng nhất với việc xây dựng hệ thống tố tụng ở nước ta theo mô hình tố tụng tranh tụng. Sau Nghị quyết số 49-NQ/TW, thì Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận tại Điều 103 là “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Như vậy, “tranh tụng” là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng. Điều 26, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự: “tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”.

1.2. Những nền tảng thực tiễn về tranh tụng trong tố tụng hình sự

Sau hơn mười năm áp dụng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các chủ thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ tố tụng của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã có không ít những bất cập gây cản trở cho các chủ thể tố tụng hình sự, gây ra những khó khăn đối với những người tham gia tố tụng, trong đó có đội ngũ luật sư. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự theo tinh thần của Nghị quyết số 49- NQ/TW và tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Hoạt động tranh tụng của luật sư giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự đang gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy hết vai trò và vị trí của luật sư trong với vai trò phản biện, bào chữa. Với các quy định về trách nhiệm bồi thường của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đối với các vụ án oan sai theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước khiến cho nhiều chỗ, nhiều nơi nảy sinh hiện tượng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có tâm lý không muốn nhận sai lầm nếu đã khởi tố không đúng, dẫn đến việc khó khăn cho việc đình chỉ vụ án. Vì vậy, chú trọng vấn đề tranh tụng trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự (tiền tố tụng) sẽ góp phần giảm thiểu tỉ lệ án oan sai, hạn chế việc khởi tố thiếu căn cứ ngay từ giai đoạn đầu của quy trình tố tụng[5].

Việc tham gia của luật sư với vai trò là người bào chữa trong vụ án hình sự từ khi nghi phạm bị bắt, bị tạm giam, bị khởi tố… như các quy định pháp luật hiện nay vẫn chưa đảm bảo cân bằng địa vị tố tụng của bên buộc tội và bên gỡ tội, đó là một trong các nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án oan, sai xảy ra, trong đó có thể kể đến một số vụ như:

Vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang bị kết án tù chung thân về tội giết người đã được minh oan sau 10 năm chịu hình phạt tù; vụ ông Trần Văn Chiến ở Tiền Giang bị kết án tù chung thân về tội giết người được minh oan sau hơn 16 năm chấp hành hình phạt tù; vụ anh Nguyễn Minh Hùng ở Tây Ninh bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử 2 lần và đều tuyên phạt mức án tử hình về hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép chất ma túy, được minh oan sau hơn 4 năm ròng rã kêu cứu; vụ ông Bùi Minh Hải ở Đồng Nai bị Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Đồng Nai đề nghị mức án tử hình và bị Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Đồng Nai tuyên phạt tù chung thân về các tội giết người, cướp tài sản, hiếp dâm được minh oan sau 16 tháng bị giam giữ. Đặc biệt, Vụ án “vườn điều” ở Bình Thuận được xem là một trong những vụ án oan, sai lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam bởi có đến 9 người trong một gia đình rơi vào vòng lao lý, vụ án được đưa ra xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp nhưng đều bị hủy án do có nhiều tình tiết chưa rõ ràng. Việc điều tra, xét xử vụ án được kéo dài 12 năm nhưng vẫn không tìm ra hung thủ. Năm 2006, Cơ quan điều tra (CQĐT) xác định các bị cáo không có tội và trả tự do tại tòa, đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) đã công khai xin lỗi và bồi thường cho những người bị oan, sai. Vụ 5 công an dùng nhục hình ở Phú Yên; Vụ án oan với ông Huỳnh Văn Nén; Vụ án khởi tố chủ quán cà phê “Xin Chào” tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh; mới đây là vụ án oan với ông Hàn Đức Long… cuối cùng đều đình chỉ, xin lỗi công khai và xử lý cán bộ có liên quan[6].

Trên đây là một số vụ án oan, sai có tính chất nghiêm trọng và phức tạp xảy ra trong thời gian qua. Ngoài các vụ án này, còn rất nhiều vụ án mà người bị điều tra, truy tố, xét xử, bị tạm giam, tạm giữ, bị phạt tù… không phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi chỉ là vi phạm hành chính, vi phạm nghĩa vụ dân sự, không có dấu hiệu tội phạm. Thực tiễn có nhiều trường hợp có dấu hiệu oan sai, Tòa án hủy án xử đi, xử lại nhiều lần, vụ án trở thành những “kỳ án” không biết tới khi nào mới có hồi kết… Tuy nhiên, việc kéo dài thời hạn tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng không nhận sai, cố tình gán tội cho bị can, bị cáo khiến bị can bị cáo nản lòng, nhắm mắt chấp nhận một tội danh hoặc một mức hình phạt nào đó để được “yên thân”. Điều đó cho thấy, pháp luật về tố tụng hình sự ở nước ta còn nhiều bất cập, việc thực thi các quy định của pháp luật trong quá trình trước khi khởi tố vụ án. Có nhiều trường hợp việc xác minh, giải quyết tin báo tố giác tội phạm chưa thật nghiêm túc, việc xác minh tin báo, tố giác tội phạm, xác định các căn cứ khởi tố còn nhiều thiếu sót dẫn đến oan sai, gây thiệt hại cho công dân[7]. Vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng cũng như pháp luật về tư pháp hình sự nói chung ở nước ta phải được sửa đổi, bổ sung thường xuyên, tạo hành lang pháp lý minh bạch hơn cho các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền của mình, cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng từ trung ương tới địa phương đang tiến hành tổ chức tổng kết việc thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự để đánh giá về thực trạng và hiệu quả áp dụng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và triển khai thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nhưng vẫn còn nhiều sai sót, bất cập vẫn chưa được giải quyết, khắc phục kịp thời.

Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vừa được ban hành và đã có một số sửa đổi, bổ sung về hoạt động tranh tụng của luật sư trước khởi tố tạo nền tảng cơ sở pháp lý, đảm bảo tốt hơn việc tranh tụng của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng vụ án hình sự. Tuy nhiên, Bộ luật này đang bị lùi thời hiệu áp dụng, đồng thời vẫn chưa đi vào thực tiễn nên chưa thể giải quyết được triệt để các vấn đề vướng mắc, tồn tại về tranh tụng trong tố tụng hình sự. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, phát hiện những vấn đề bất hợp lý về hoạt động tranh tụng trong vụ án hình sự, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật hình sự là việc cần thiết trong bối cảnh nước ta hiện nay.

2. Hoạt động tranh tụng của luật sư trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm

Hoạt động tranh tụng của luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm trong bài viết này, tác giả phân tích và quy chiếu theo những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, các quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trong tố tụng hình sự, luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên có một giai đoạn trước khi khởi tố là giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm là một giai đoạn rất quan trọng, là giai đoạn xác định có đủ căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can hay không, nếu thiếu thận trọng thì có thể dẫn đến oan sai về sau. Thế nhưng ở giai đoạn này, sự tham gia của luật sư lại còn rất mờ nhạt.

Trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định “người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần thiết phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra” (Điều 36). Như vậy, đối với quy định cũ, luật sư chỉ được tham gia tranh tụng từ giai đoạn khởi tố bị can, điều này làm hạn chế các hoạt động tranh tụng của luật sư và có trường hợp dẫn đến sự không khách quan trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra” (Điều 58). “Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can” (Điều 59). Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có sự thay đổi quy định về việc tham gia tranh tụng của luật sư, theo đó luật sư được tham gia tố tụng từ giai đoạn tạm giữ đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tham gia tranh tụng từ giai đoạn này, nghĩa là luật sư được tham gia tranh tụng sớm hơn, vai trò của luật sư đã được ghi nhận nhiều hơn, đặc biệt tạo ra sự đối trọng giữa bên gỡ tội và các bên tham gia tố tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án, dẫn đến sự khách quan, minh bạch hơn trong giai đoạn trước khi khởi tố vụ án(6).

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đang bị lùi thời hạn có hiệu lực thi hành, tuy nhiên đã có một số quy định ghi nhận sự tham gia tranh tụng của luật sư giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự. Theo đó luật sư có thể tham gia tranh tụng từ giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm. Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 năm quy định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền “tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình” (điểm e, khoản 1). Điều 58 quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền “tự bào chữa, nhờ người bào chữa” (điểm g, khoản 1). Nguời bị tạm giữ có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa (điểm d, khoản 2, Điều 59). Việc ghi nhận người bị tố giác, người bị kiến nghị, người bị tạm giữ,.. có quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, nhờ người bào chữa đã nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, giai đoạn trước khởi tố, tạo tiền đề quan trọng bước đầu xác định sự thật khách quan, bảo đảm sự công bằng pháp luật của các bên tham gia tố tụng[8].

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là luật sư, và có quyền: (i) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; (ii) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (iii) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (iv) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (v) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Ngoài ra, luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có nghĩa vụ sử sụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Giai đoạn trước khởi tố vụ án, khởi tố bị can có thể xảy ra một số xu hướng như sau: (i) Cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng là người nắm quyền chủ động trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để buộc tội, không có người bào chữa. Nếu người xác minh tin báochủ quan ý chí, bỏ qua nguyên tắc suy đoán vô tội thì dễ dẫn đến khởi tố oan sai; (ii) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang mang, lo lắng, không làm chủ được trong những buổi làm việc với cơ quan tố tụng nên rất cần có người tư vấn pháp lý, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ ngay từ giai đoạn này; (iii) Luật sư đóng vai trò tư vấn pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, có trách nhiệm giải thích cho họ về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý cho họ để từ đó giúp người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình tham gia tố tụng đúng quy định của pháp luật và giám sát toàn bộ quá trình kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, tránh bị bức cung, ép cung, để minh oan cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

Trong giai đoạn này, việc đầu tiên mà luật sư phải làm là thực hiện thủ tục để được tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Tuy nhiên, trên thực tế thì luật sư thường bị gây khó, phiền hà từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, một phần do nhận thức chưa thấu đáo của cơ quan tố tụng, một phần do chủ ý của một số cán bộ tố tụng cản trở sự “vào cuộc” của luật sư.

Sau khi hoàn tất thủ tục tham gia tố tụng, chính thức có tư cách pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thì luật sư cần gặp gỡ, làm việc với cơ quan tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố. Luật sư tiến hành gặp gỡ, tham gia lấy lời khai của người tố giác, người bị tiến nghị khởi tố. Công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan của việc kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố, hạn chế được các vi phạm pháp luật có thể xảy ra như: ép cung, mớm cung, bức cung, làm sai lệch hồ sơ vụ án…

Ngoài ra, việc luật sư bào chữa tham gia vào các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin, vật chứng, trình bày ý kiến, đánh giá về vật chứng tài liệu, có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố cũng là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa; thông qua các hoạt động này, luật sư có thể phát hiện được những tình tiết có ý nghĩa minh oan, ngăn ngừa việc khởi tố không có căn cứ cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố trong trường hợp họ vô tội, làm hạn chế tình trạng oan sai ngay từ giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố trong tố tụng hình sự.

3. Những khó khăn, thách thức của luật sư trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm

Một là, thiếu cơ sở pháp lý ghi nhận hoạt động tranh tụng của luật sư giai đoạn trước khởi tố. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đang bị lùi thời hạn hiệu lực sẽ là một bước tiến mới cho hoạt động tranh tụng của luật sư trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa thể phát huy hết hiệu quả của nó khi trại tạm giam, nhà tạm giữ vẫn do cơ quan điều tra nắm giữ. Chưa có quy định là mọi buổi làm việc của cán bộ điều tra với người bị tố cáo phải có kiểm sát viên hoặc có luật sư tham gia, chứng kiến khiến những quy định mới vẫn chưa có cơ chế đảm bảo thực hiện trên thực tế;

Hai là, nhận thức pháp luật của người dân còn hạn chế, đặc biệt là quyền bào chữa và nhở người khác bào chữa. Thêm vào đó là thói quen pháp lý ít sử dụng dịch vụ bào chữa của luật sư, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý chưa đáp ứng được yêu cầu khiến chính bản thân những người bị tố cáo, bị kiến nghị khởi tố còn coi nhẹ giá trị, vai trò của luật sư trong giai đoạn này cũng như trong quá trình tố tụng[9].

Ba là, tâm lý chung của người tiến hành tố tụng là ngại va chạm với luật sư, không muốn để luật sư tham gia tranh tụng từ giai đoạn này nên có thể có những tác động tâm lý tiêu cực với người bị tố cáo, người bị kiến nghị khởi tố khiến họ không nhờ luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho mình ngay từ giai đoạn đầu này;

Bốn là, chưa có những cơ chế rõ ràng, các chế tài cụ thể cho việc xử lý những người tiến hành tố tụng vi phạm quyền được bào chữa, bảo vệ quyền lợi của người bị tố cáo, người bị kiến nghị khởi tố.

4. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng của luật sư trong giai đoạn xác minh tin báo, tố giác tội phạm

Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động tranh tụng của luật sư giai đoạn trước khởi tố, tạo hành lang pháp lý để luật sư phát huy vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Luật Luật sư cũng cần sửa đổi, bổ sung cho thích ứng kịp thời với các bộ luật mới được ban hành, bảo đảm nâng cao vai trò tranh tụng của luật sư trong giai đoạn trước khởi tố nói riêng và các giai đoạn khác nói chung, góp phần làm minh bạch hoạt động tố tụng, phòng ngừa oan sai, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, cần thiết lập các cơ chế, đảm bảo để luật sư được tham gia vào giai đoạn trước khởi tố. Cơ quan tố tụng phải coi việc có mặt của luật sư ngay từ đầu chính là điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, xác minh tin báo tố giác, kiến nghị khởi tố, đảm bảo khách quan, toàn diện và trực tiếp vào việc xác lập chứng cứ của vụ án, giúp cho công tác kiểm tra, xác minh đạt hiệu quả cao.

Thứ ba, tích cực tuyên truyền, vận động người dân tiếp cận với những quy định mới của pháp luật để họ nắm được cơ bản các quyền và nghĩa vụ của công dân, trong đó có quyền bào chữa, quyền được nhờ luật sư bào chữa trong tố tụng hình sự.

Thứ tư, tăng cường số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng luật sư. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, kiến thức, kỹ năng hành nghề luật sư, tăng cường số lượng luật sư để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả trong tranh tụng, gây dựng uy tín trong nhân dân của đội ngũ luật sư Việt Nam.

Thứ năm, giai đoạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố có thể coi như tiền đề của vụ án về sau, là bước đi đầu tiên rất quan trọng đối với quá trình tiến hành tố tụng. Do đó hoạt động tranh tụng của luật sư góp phần đưa sự việc đi theo đúng hướng khách quan của vụ án, giảm thiểu những vụ án oan sai về sau.

ThS. Nguyễn Văn Đồng, Trường Đại học Luật Hà Nội

ThS. Đặng Văn Cường, Văn phòng Luật sư Chính Pháp


[1]Lê Cảm (2003), Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, Tạp chí Luật học.

[2]Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.

[3]Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[4]Đặng Văn Cường (2016), Hoạt động tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự tại Hà Nội, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 191 tháng 11&12/2016, tr.63-68&62.

[5]Nguyễn Thái Phúc (2003), Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, tr.3-10.

[7]Đặng Văn Cường (2016), Hoạt động tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự tại Hà Nội, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 191 tháng 11&12/2016, tr.63-68&62.

[8]Đặng Văn Cường (2016), Hoạt động tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự tại Hà Nội, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 191 tháng 11&12/2016, tr.63-68&62.

[9]Hoàng Văn Vĩnh (2004), Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 3, tr.46-49.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm