Thứ bảy 21/06/2025 06:31
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần trong Luật Doanh nghiệp ở Việt Nam

Công ty hợp vốn cổ phần được pháp luật các nước đưa ra khái niệm bằng cách liệt kê các đặc điểm pháp lý nổi bật, cụ thể như: Theo pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức,

1. Khái niệm và bản chất pháp lý của công ty hợp vốn cổ phần

1.1. Khái niệm công ty hợp vốn cổ phần

Công ty hợp vốn cổ phần được pháp luật các nước đưa ra khái niệm bằng cách liệt kê các đặc điểm pháp lý nổi bật, cụ thể như: Theo pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức, khái niệm công ty hợp vốn cổ phần được hiểu là một loại hình công ty, trong đó ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đối với các chủ nợ của công ty (thành viên hợp danh) và các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của công ty (cổ đông hạn chế) trong phạm vi số cổ phần mà họ sở hữu[1]. Theo pháp luật Cộng hòa Pháp, công ty hợp vốn cổ phần là công ty có vốn được chia thành các cổ phần, được thành lập bởi một hoặc nhiều thành viên hợp danh, thành viên này có tư cách thương nhân và chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với nghĩa vụ trả nợ của công ty và thành viên hợp vốn có tư cách của các cổ đông và chịu thiệt hại chỉ trong phạm vi vốn góp của họ. Số lượng thành viên hợp vốn không được ít hơn ba thành viên[2]. Ngoài ra, pháp luật của nhiều nước khác như Luxembourg, Italia, Ba Lan… đều điều chỉnh loại hình công ty hợp vốn cổ phần có những đặc điểm pháp lý tương đồng với pháp luật các nước Đức, Pháp.

Trước năm 1975 ở Việt Nam, loại hình công ty hợp vốn cổ phần đã được ghi nhận và quy định trong hệ thống pháp luật. Cụ thể: Bộ luật Dân sự Bắc kỳ năm 1931 đưa ra khái niệm bằng cách liệt kê các đặc điểm pháp lý nổi bật khi quy định: Trong hội hợp cổ, thì các cổ đông là phải xuất vốn, chỉ phải chịu trách nhiệm đến ngang phần vốn của mình mà thôi, còn những hội viên thụ tư thì phải đem tất cả tài sản mình mà cùng nhau chịu trách nhiệm liên đới về cả công nợ của hội (Điều 1265), vốn hội chia làm nhiều phần gọi là cổ phần (Điều 1267). Còn Điều 236 Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 quy định: Hội hợp tư cổ phần gồm có một hay nhiều hội viên thụ tư liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi trái khoản của hội và những hội viên xuất tư chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức cổ phần.

Như vậy, có thể hiểu công ty hợp vốn cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó bao gồm ít nhất một thành viên hợp danh có tư cách thương nhân, chịu trách nhiệm vô hạn, liên đới về các khoản nợ của công ty và ít nhất ba (03) thành viên hợp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị cổ phần của mình sở hữu; vốn điều lệ được chia ra thành các phần bằng nhau; công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được đăng ký thành lập và có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.

1.2. Bản chất pháp lý của công ty hợp vốn cổ phần

Trong công ty hợp vốn cổ phần, thành viên hợp danh có tư cách thương nhân, chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các nghĩa vụ trả nợ của công ty. Thành viên hợp danh là những người trực tiếp tham gia quản lý công ty và có quyền đại diện, nhân danh cho công ty tham gia các giao dịch với bên thứ ba. Bên cạnh đó, công ty có thành viên hợp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi giá trị cổ phần mà thành viên đó sở hữu. Thành viên hợp vốn không có quyền tham gia quản lý công ty và không có quyền đại diện cho công ty. Tư cách pháp lý của thành viên góp vốn giống như tư cách của các cổ đông trong công ty cổ phần.

Cho đến nay, có nhiều ý kiến khác nhau cho rằng, bản chất pháp lý của công ty hợp vốn cổ phần là loại hình công ty đối vốn hoặc công ty đối nhân. Theo quan điểm coi công ty hợp vốn cổ phần là loại hình công ty đối vốn, thì công ty đối vốn gồm có công ty vô danh và công ty cấp vốn cổ phần. Cả hai công ty này đều là những công ty mà tiền vốn chia ra từng cổ phần[3]. Cùng quan điểm này, có nhận xét rằng, ngoài công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, người ta còn xếp công ty hợp vốn đơn giản cổ phần vào loại công ty đối vốn[4]. Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng, công ty hợp vốn cổ phần trong pháp luật của các nước theo truyền thống dân luật là công ty đối nhân. Các nước theo truyền thống dân luật, trong đó có cả Trung Quốc, thường khái quát hóa các công ty hợp vốn, công ty hợp vốn đơn giản, công ty hợp vốn đơn giản cổ phần, công ty dự phần và các biến dạng của chúng dưới quan niệm công ty đối nhân[5]. Theo quan điểm này, tính chất đối nhân được thể hiện rõ trong sự liên kết của các thành viên hợp danh trong công ty hợp vốn cổ phần.

Theo tác giả, xuất phát từ việc loại hình công ty hợp vốn cổ phần là hình thức công ty kết hợp, giao thoa giữa hai loại hình công ty đối nhân và đối vốn. Vì thế, việc xếp loại công ty hợp vốn cổ phần chỉ là tương đối, mang ý nghĩa trong khoa học pháp lý và cần phải linh động cho từng trường hợp cụ thể[6]. Còn trong thực tiễn, có thể thấy rằng, loại hình công ty hợp vốn cổ phần đáp ứng nhu cầu của các nhà kinh doanh bởi nó vừa mang những đặc tính ưu việt của loại hình công ty đối nhân - công ty hợp vốn đơn giản và của loại hình công ty đối vốn - công ty cổ phần.

Công ty hợp vốn cổ phần có những đặc thù cụ thể như sau:

Thứ nhất, tính liên kết trong công ty hợp vốn cổ phần: Sự liên kết giữa thành viên hợp danh là sự liên kết mang tính đối nhân, bao gồm những người có quan hệ thân thích, hiểu biết lẫn nhau. Các thành viên hợp danh là những người có uy tín, kinh nghiệm nghề nghiệp, có tư cách thương nhân. Trong khi đó, sự liên kết của các thành viên góp vốn lại mang tính đối vốn khi họ là những nhà đầu tư, bỏ tiền vào công ty để nhận lợi tức. Các thành viên góp vốn có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác giống như các cổ đông trong loại hình công ty cổ phần. Tuy vậy, các thành viên góp vốn được bảo đảm bằng tính chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới của thành viên hợp danh.

Thứ hai, địa vị pháp lý của các thành viên có sự khác nhau: Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn có địa vị pháp lý khác nhau. Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với các khoản nợ của công ty. Họ có quyền quản lý công ty, có quyền đại diện và nhân danh công ty để tham gia các quan hệ pháp luật. Trong khi đó, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số cổ phần sở hữu và không có quyền tham gia quản lý, quyền nhân danh, đại diện cho công ty. Nhưng họ có quyền tham gia ban kiểm soát (chỉ gồm thành viên góp vốn) để giám sát các hoạt động của thành viên hợp danh và thực hiện các quyền nhất định tại đại hội đồng cổ đông.

2. Pháp luật của một số nước và lịch sử pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn cổ phần

2.1. Pháp luật của một số nước về công ty hợp vốn cổ phần

Ở Cộng hòa Pháp, loại hình công ty hợp vốn cổ phần được quy định trong Bộ luật Thương mại. Đồng thời, những quy định liên quan công ty cổ phần và công ty hợp vốn đơn giản được áp dụng cho công ty hợp vốn cổ phần với điều kiện là những quy định đó phù hợp với những quy định đặc thù của Điều L. 226-1 và các điều tiếp theo (khoản 1 Điều L.226-1) của Bộ luật Thương mại. Ở Pháp, có hai loại hình công ty cổ phần gồm công ty vô danh và công ty góp vốn cổ phần. Trong đó, công ty hợp vốn cổ phần giống công ty hợp vốn đơn giản ở chỗ có hai loại thành viên là thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn trên tài sản của chính họ và các thành viên xuất vốn chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn góp của họ, nhưng các cổ phần thì như trong các công ty vô danh, có thể tự do chuyển nhượng[7]. Trên thực tế, công ty hợp vốn cổ phần là hình thức rất thịnh hành vào khoảng thời gian từ năm 1807 đến năm 1905 ở Pháp và tạo nên cơn sốt vào thời bấy giờ, nó tạo một kênh cho sự gặp nhau giữa vốn - được góp bởi thành viên hợp vốn và ý tưởng - được góp bởi thành viên hợp danh, công ty hợp vốn cổ phần còn có những lợi thế quan trọng hơn từ quy chế công ty cổ phần của mình và do vậy, nó có thể phát hành chứng khoán[8].

Ở Cộng hòa liên bang Đức, công ty hợp vốn cổ phần xuất hiện vào thế kỷ XIX, trước khi được Bộ luật Thương mại Đức ban hành năm 1861. Phần lớn những vấn đề của công ty hợp vốn cổ phần được áp dụng các quy định của Luật Công ty cổ phần Đức (về thành lập, tổ chức quản lý, quyền và nghĩa vụ của các cổ đông…), ngoài ra, còn áp dụng một phần các quy định về công ty hợp vốn đơn giản. Việc phát hành cổ phần để huy động vốn tuân theo quy định pháp luật chứng khoán.

Ở Italia, công ty hợp vốn cổ phần được quy định từ Điều 2452 đến Điều 2462 Bộ luật Dân sự năm 1942 và các quy định này không thay đổi đáng kể sau khi cải cách chung năm 2003. Về nguyên tắc, trong pháp luật Italia, công ty hợp vốn cổ phần cũng tương tự như một công ty hợp danh hữu hạn. Sự khác biệt chính là việc vốn góp trong công ty hợp vốn cổ phần được thể hiện bằng vốn cổ phần[9]. Còn trong pháp luật của Luxembourg, công ty hợp vốn cổ phần ngoài các quy định đặc thù, thì một phần các điều khoản về công ty trách nhiệm hữu hạn cũng áp dụng đối với công ty hợp vốn cổ phần.

Như vậy, có thể thấy rằng công ty hợp vốn cổ phần được pháp luật các nước quy định từ rất sớm và cho đến nay, loại hình công ty vẫn được rất nhiều các quốc gia ghi nhận để các nhà đầu tư lựa chọn. Ở hầu hết pháp luật các nước, chế định công ty hợp vốn cổ phần là sự kết hợp các quy định đặc thù riêng và những quy định của loại hình công ty hợp vốn đơn giản và công ty cổ phần.

2.2. Lịch sử pháp luật Việt Nam điều chỉnh công ty hợp vốn cổ phần

Trước năm 1975 ở Việt Nam, pháp luật công ty của châu Âu đã được người Pháp du nhập vào từ cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20. Những quy định về công ty ở Việt Nam trong giai đoạn này đều được coi là những bản sao của Luật Công ty Pháp[10]. Cụ thể, Điều 1265 Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 quy định về hội hợp cổ (công ty hợp vốn cổ phần) như sau: “Trong hội hợp cổ, thì các cổ đông là phải xuất vốn, chỉ phải chịu trách nhiệm đến ngang phần vốn của mình mà thôi, còn những hội viên thụ tư thì phải đem tất cả tài sản mình mà cùng nhau chịu trách nhiệm liên đới về cả công nợ của hội”. Vốn hội được chia làm nhiều phần gọi là cổ phần.

Bộ luật Thương mại Trung kỳ năm 1942 cũng quy định loại hình hội này, theo đó, tại Điều 102 quy định công ty đối vốn gồm có công ty vô danh và công ty cấp vốn cổ phần. Đến Bộ luật Thương mại Sài Gòn năm 1972, thì hội hợp tư cổ phần tiếp tục được ghi nhận từ Điều 236 đến Điều 294. Tuy vậy, từ sau khi giải phóng đất nước đến nay, pháp luật Việt Nam đã không ghi nhận và quy định loại hình công ty này.

3. Nhu cầu cần thiết và những vấn đề pháp lý khi xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần trong Luật Doanh nghiệp

3.1. Nhu cầu cần thiết xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần

Việc thành lập loại hình công ty nào phụ thuộc vào ý chí của nhà đầu tư và họ chịu sự ràng buộc (đối với chính họ, với Nhà nước và bên thứ ba) khi sự lựa chọn một loại hình để thành lập. Vì thế, pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận nhiều mô hình tổ chức kinh doanh, đặc biệt nhiều loại hình công ty cho các nhà đầu tư lựa chọn[11]. Về nguyên tắc, họ có quyền lựa chọn tổ chức kinh doanh được pháp luật quy định hoặc sáng tạo ra loại hình mới với các dạng liên kết khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu và khả năng của mình.

Các quy định pháp luật hiện hành không thừa nhận các hình thức công ty được các nhà đầu tư thành lập trong thực tế. Có nghĩa là ngoài các loại hình được Luật Doanh nghiệp ghi nhận và điều chỉnh, thì các nhà đầu tư không thể thành lập các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy vậy, trong thực tế, đặt ra nhiều trường hợp mà nhà đầu tư muốn liên kết với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định như:

Trường hợp thứ nhất: Nhà đầu tư muốn thành lập một loại hình công ty thuộc sở hữu của các thành viên trong cùng một gia đình, một dòng họ và công ty đó phải gắn liền với sự phát triển của gia đình, dòng họ ấy. Các thành viên này phải có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng và đại diện, nhân danh công ty tham gia các quan hệ pháp luật (thành viên hợp danh). Đặc biệt, họ không muốn bị chi phối hoặc bị thâu tóm bởi người ngoài công ty. Nhưng bên cạnh đó, họ muốn có sự linh hoạt trong việc huy động nhiều người tham gia góp vốn bằng hình thức mua cổ phần (giống công ty cổ phần) để hưởng lợi tức từ hoạt động của công ty hay nói cách khác họ muốn được huy động vốn từ đại chúng (để trở thành thành viên góp vốn của công ty). Cơ cấu tổ chức quản trị nội bộ của công ty phải gọn nhẹ, đơn giản và ít chịu sự điều chỉnh chặt chẽ bởi quy định pháp luật (khác với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần). Nếu soi chiếu các loại hình công ty được pháp luật hiện hành quy định, thì không có loại hình nào đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của nhà đầu tư.

Trường hợp thứ hai: Khi các thành viên hợp danh của công ty hợp vốn đơn giản (theo Luật Doanh nghiệp hiện hành là công ty hợp danh có thành viên góp vốn) muốn chuyển đổi hình thức công ty sang loại hình công ty khác nhằm đáp ứng các điều kiện: (i) Có mô hình tổ chức, quyền điều hành tương đối giống nhau; (ii) Có cơ chế linh động huy động vốn từ bên ngoài để trở thành thành viên công ty; (iii) Phần vốn góp được tự do chuyển nhượng (tương tự công ty cổ phần). Trong trường hợp này, theo Luật Doanh nghiệp hiện hành sẽ không có loại hình công ty nào đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư.

Trường hợp phát sinh trong thực tiễn trên đây chưa được pháp luật điều chỉnh, chưa có cơ sở pháp lý điều chỉnh các hình thức liên kết mới phát sinh và nhà đầu tư không có cơ hội lựa chọn loại hình công ty. Từ đó tạo ra các kẽ hở của pháp luật, những giao dịch ngầm “nấp bóng” các loại hình được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Pháp luật không khuyến khích được các nhà đầu tư tham gia thành lập những loại hình liên kết mới và chưa thể hiện sự linh hoạt của pháp luật trong nền kinh tế thị trường.

3.2. Những vấn đề pháp lý đặt ra khi xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần

Dựa trên kinh nghiệm của pháp luật một số nước về công ty hợp vốn cổ phần và kỹ thuật lập pháp ở Việt Nam, thì việc bổ sung chế định công ty hợp vốn cổ phần vào quy định của Luật Doanh nghiệp được coi là phương án có nhiều ưu việt và đảm bảo tính thống nhất của pháp luật tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể, chế định công ty hợp vốn cổ phần nên được xây dựng thành một chương riêng trong Luật Doanh nghiệp.

Chế định về công ty hợp vốn cổ phần cũng bao gồm các quy phạm pháp luật quy định những vấn đề pháp lý chung của các loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chế định về công ty hợp vốn cổ phần còn bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề pháp lý mang tính đặc thù như: Khái niệm công ty hợp vốn cổ phần; trình tự, thủ tục đăng ký thành lập; vốn điều lệ, góp vốn; cổ phần, các loại cổ phần; chuyển nhượng cổ phần; quyền và nghĩa vụ của các thành viên, mối quan hệ giữa các thành viên với nhau và với công ty; cơ cấu tổ chức quản trị và điều hành; vấn đề đại diện và điều hành hoạt động của công ty; việc chuyển đổi hình thức công ty; chấm dứt hoạt động công ty, bao gồm giải thể và phá sản.

Quá trình xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần phải được xem xét trên các khía cạnh như:

Một là, về thiết kế và xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần trong pháp luật Việt Nam. Việc bổ sung các quy phạm về công ty hợp vốn cổ phần vào trong Luật Doanh nghiệp tạo ra cơ chế được đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Chế định về công ty hợp vốn cổ phần vừa bao gồm những quy định chung được áp dụng với các loại hình doanh nghiệp, nhưng vừa có các quy định mang tính đặc thù thành một chương, mục riêng trong Luật Doanh nghiệp.

Hai là, về phạm vi áp dụng chế định về công ty hợp vốn cổ phần. Ở Việt Nam, có những loại hình công ty được gắn với ngành nghề kinh doanh nhất định. Tuy vậy, khi bổ sung loại hình công ty hợp vốn cổ phần không nên hạn chế hoặc bắt buộc gắn với ngành nghề kinh doanh nhất định, mà để cho các nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn để thành lập.

Ba là, tính thống nhất của chế định về công ty hợp vốn cổ phần trong pháp luật. Khi xây dựng và bổ sung loại hình công ty hợp vốn cổ phần vào trong nội dung của Luật Doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến các quy định khác của Luật Doanh nghiệp và các quy định của luật chuyên ngành liên quan. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo, cần phải xem xét các văn bản pháp luật liên quan khác để tránh sự không thống nhất, chồng chéo gây khó khăn trong công tác thực thi pháp luật trong thực tiễn.

Bốn là, về kỹ thuật pháp lý khi xây dựng chế định công ty hợp vốn cổ phần. Chế định về công ty hợp vốn cổ phần nằm trong hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp thuộc lĩnh vực luật tư. Với đặc thù bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh chủ thể kinh doanh, vì thế có tác động lớn đến xã hội. Quá trình soạn thảo, ban hành cần được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học, đánh giá một cách đầy đủ sự cần thiết xây dựng, ban hành chế định công ty hợp vốn cổ phần ở Việt Nam.

Trong những năm qua, các loại hình doanh nghiệp được quy định trong pháp luật ở Việt Nam đã phần nào đáp ứng được các nhu cầu thực tiễn đời sống kinh doanh. Qua đó, thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư góp vốn để thành lập các loại hình tổ chức kinh doanh với những dạng liên kết khác nhau. Khi pháp luật chỉ giới hạn các loại hình doanh nghiệp hiện hành, nhà đầu tư bị hạn chế quyền tự do lựa chọn các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy, ở cả khía cạnh lý luận và thực tiễn đặt ra vấn đề cần thiết phải xây dựng các quy định pháp luật điều chỉnh đa dạng các loại hình doanh nghiệp, trong đó có loại hình công ty hợp vốn cổ phần.

TS. Nguyễn Văn Lâm

TS. Vũ Quang

Viện Kinh tế và Quản lý, Đại học Bách khoa Hà Nội



[1]. Khoản 1 Điều 278, German Stock Corporation Act 1965.

[2]. Điều L.226-1 Commercial Code France 1807.

[3]. Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Sài Gòn, tr. 81.

[4]. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam (tái bản lần thứ 3), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 154.

[5]. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 54.

[6]. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Thương mại: Phần chung và thương nhân, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 162

[7]. Lưu Văn Đạt, Phạm Hữu Chi (1993) (dịch), Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 207.

[8]. Lê Minh Phiếu (2006), “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp”, Tạp chí khoa học pháp lý, (4) (35), tr. 48 - 55.

[9]. Enrico Furia, Introduction to Comparative US/EU Company Law, theo https://www.iim-edu.org/thinktank/papers/WhitePaper_EU_Vs.US_Comparative CompanyLaw.pdf, truy cập ngày 20/6/2019.

[10]. Bui Xuan Hai, Gordon Walker (2005), “Transitional Adjustment Problems in Contemporary Vietnamese Company Law”, Journal of International Banking Law and Regulation, (20) (11), tr. 567 - 568.

[11]. Bùi Xuân Hải (2016) (chủ biên), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh (tái bản lần 1), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 19.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm