Thứ sáu 06/06/2025 02:10
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xử lý tài sản bảo đảm theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và yêu cầu bảo đảm thực thi

Tóm tắt: Bài viết này phân tích về cơ chế xử lý tài sản bảo đảm theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và chỉ ra những vấn đề cần hoàn thiện nhằm thực thi hiệu quả các quy định của Bộ luật Dân sự về giao dịch bảo đảm.


Abstract: This paper analyzes the mechanism of handling secured assets according to the Civil Code of 2015 and points out issues to be completed in order to effectively implement provisions of the Civil Code on secured transactions.

1. Nhận diện về xử lý tài sản bảo đảm

Tài sản bảo đảm là đối tượng của giao dịch bảo đảm trong quan hệ dân sự đối với nghĩa vụ cần được bảo đảm. Ở nước ta hiện nay, khái niệm xử lý tài sản bảo đảm được quy định cụ thể ở một số văn bản pháp luật chuyên ngành. Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, xử lý tài sản bảo đảm là hoạt động khi cơ quan có thẩm quyền xử lý xong tài sản cầm cố, thế chấp thông qua hình thức bán đấu giá tài sản, sau khi trừ đi các chi phí thi hành án, số tiền còn lại sẽ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được bảo đảm[1]. Còn theo khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, trong trường hợp khách hàng không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, mua bán nợ của tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, thì xử lý tài sản bảo đảm là quyền của bên nhận bảo đảm được thực hiện khi: (i) Nợ đến hạn (nghĩa vụ đến hạn phải thực hiện) nhưng bên có nghĩa vụ không trả được nợ hay không thực hiện được nghĩa vụ và không đạt được thỏa thuận khác với bên nhận bảo đảm; (ii) Xử lý tài sản bảo đảm là hành vi thực hiện quyền theo hợp đồng bảo đảm.

Các hành vi khác để xử lý nợ do tổ chức tín dụng thực hiện như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, mua bán nợ là thực hiện quyền theo quy định của pháp luật mà không thuộc phạm vi xử lý tài sản bảo đảm, mặc dù, về mục đích thì xử lý tài sản bảo đảm hay các biện pháp khác đều nhằm thu hồi khoản nợ cho bên nhận bảo đảm. Tuy nhiên, khi bên nhận bảo đảm thực hiện quyền theo hợp đồng để xử lý tài sản bảo đảm thì trình tự, thủ tục phải tiến hành theo quy định của pháp luật. Tóm lại, xử lý tài sản bảo đảm là quyền theo hợp đồng, theo đó, bên có quyền (bên nhận bảo đảm) thực hiện các biện pháp đối với tài sản bảo đảm để thu hồi nợ (gốc và lãi nếu có).

2. Cơ chế xử lý tài sản bảo đảm trong Bộ luật Dân sự năm 2015

2.1. Về tài sản bảo đảm

Khoản 1 Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm”, trừ trường hợp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu. Việc sử dụng từ “tài sản” của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi và bao quát các đối tượng có thể được sử dụng trong giao dịch dân sự như vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quy định này làm gia tăng cơ hội tiếp cận vốn cho các bên trong các giao dịch dân sự nói chung và trong các giao dịch dân sự có bảo đảm nói riêng. Việc sử dụng thuật ngữ chung “tài sản” mà không liệt kê từng loại tài sản cho phép khai thác tối đa các loại tài sản vào biện pháp bảo đảm và đây là hướng đi cần thiết đối với Bộ luật Dân sự[2]. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Đối với trường hợp tài sản là quyền sử dụng đất thì bên bảo đảm phải có quyền sử dụng đất. Trong trường hợp bên bảo đảm dùng tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình vào các giao dịch dân sự để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được. Trong trường hợp này, pháp luật hiện hành không đòi hỏi việc sử dụng tài sản vào giao dịch bảo đảm phải mô tả tỉ mỉ, rõ ràng, cụ thể về tài sản bảo đảm mà chỉ yêu cầu tài sản đó phải “xác định được”.

Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản bảo đảm có thể có giá trị lớn hơn, bằng hoặc có giá trị nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm[3]. Trường hợp tài sản bảo đảm có giá trị nhỏ hơn nghĩa vụ cần bảo đảm thì vẫn được pháp luật chấp nhận với thỏa thuận và đồng ý từ bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm. Quy định này được cho là góp phần thúc đẩy các giao dịch dân sự. Bởi vì, nếu trong trường hợp tài sản bảo đảm bằng hoặc lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì quyền lợi của người nhận bảo đảm sẽ được “chắc chắn hơn” và giao dịch được thực hiện một cách dễ dàng. Còn trong trường hợp tài sản bảo đảm nhỏ có giá trị hơn nghĩa vụ cần bảo đảm thì phần nghĩa vụ chỉ được bảo đảm một phần tương ứng với giá trị tài sản bảo đảm, phần nghĩa vụ còn lại không có bảo đảm. Tuy nhiên, bên nhận bảo đảm chấp nhận rủi ro, đồng ý với thỏa thuận của bên bảo đảm. Đây cũng là quy định mới thể hiện pháp luật dân sự mở rộng sự công nhận, tôn trọng tự do thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ dân sự.

2.2. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm

Theo Điều 299 Bộ luật Dân sự năm 2015 các trường hợp xử lý tài sản gồm: (i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật; (iii) Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định. Các quy định này được kế thừa từ các quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và năm 2005, đặc biệt là từ Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm[4]. Nếu trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định việc xử lý tài sản xảy ra trong trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, thì tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được nâng lên thành các bên thỏa thuận hoặc “luật” có quy định. Điều này phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và tương thích với nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng[5].

2.3. Thông tin về xử lý tài sản bảo đảm

Thông báo về việc xử lý tài sản là rất quan trọng, nhưng phải đến Bộ luật Dân sự năm 2015 mới quy định nội dung này. Theo khoản 1 Điều 300 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Trước khi xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời hạn hợp lý về việc xử lý tài sản bảo đảm cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác”. Như vậy, Bộ luật đã quy định rõ chủ thể phải thực hiện hoạt động thông báo việc xử lý tài sản bảo đảm là bên nhận bảo đảm. Còn bên nhận thông tin là bên bảo đảm. Trong trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thì người nhận thông tin về việc xử lý tài sản bảo đảm còn là những bên nhận bảo đảm khác. Hình thức thông tin là thông báo bằng văn bản. Tuy nhiên, việc quy định chỉ liệt kê hai đối tượng nhận được thông tin xử lý tài sản là chưa hợp lý, bởi vì ngoài hai đối tượng là bên bảo đảm và bên cùng nhận bảo đảm khác thì những người có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng cần biết thông tin tài sản được xử lý để thực hiện nghĩa vụ.

Khoản 1 Điều 300 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định, đối với tài sản bảo đảm có nguy cơ bị hư hỏng dẫn đến bị giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản đó. Trong trường hợp bên nhận bảo đảm không thông báo cho các đối tượng nêu trên về việc xử lý tài sản bảo đảm mà gây ra thiệt hại đối với tài sản bảo đảm thì phải bồi thường cho bên bảo đảm hoặc người cùng nhận bảo đảm khác.

2.4. Giao tài sản để xử lý khi phát sinh nghĩa vụ

Điều 301 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Điều này có nghĩa là khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ thì người đang giữ tài sản bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản cho bên nhận bảo đảm để xử lý. Nhưng nếu người đang giữ tài sản không giao tài sản cho bên nhận bảo đảm xử lý thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tuy nhiên, quy định này lại “làm khó” cho bên nhận bảo đảm. Bởi vì, trên thực tiễn việc xử lý tài sản bảo đảm chỉ diễn ra thuận lợi khi bên nhận bảo đảm hoặc người đang cầm giữa tài sản bảo đảm tự nguyện giao tài sản bảo đảm. Trường hợp các bên bảo đảm hoặc người cầm giữ tài sản không tự nguyện giao tài sản bảo đảm để bên nhận bảo đảm xử lý thì họ sẽ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài “yêu cầu Tòa án giải quyết” theo quy định của pháp luật. Như vậy, bên nhận bảo đảm sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền đòi nợ của mình.

2.5. Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm

Trong xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm đều mong muốn tài sản được xử lý với giá cao nhất để bù trừ vào nghĩa vụ của bên bảo đảm. Tuy nhiên, không phải lúc nào mong muốn của bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm cũng giống nhau. Nhiều trường hợp bên nhận bảo đảm muốn xử lý nhanh tài sản bảo đảm nên xác định giá tài sản thấp. Ngược lại, bên bảo đảm lại mong muốn tài sản bảo đảm phải được xử lý với giá cao để bù trừ được nhiều nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Vì vậy, việc xác định phương thức xử lý tài sản bảo đảm để hài hòa lợi ích giữa các bên là rất quan trọng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015, có ba phương pháp để xử lý tài sản bảo đảm cơ bản mà các bên trong hợp đồng có thể thực hiện đó là:

(i) Bán tài sản bảo đảm (được thực hiện qua phương thức tự bán hoặc bán đấu giá):

- Bên nhận bảo đảm có quyền bán tài sản bảo đảm trong trường hợp hợp đồng cầm cố, thế chấp có nội dung thỏa thuận bên nhận bảo đảm có quyền bán tài sản bảo đảm. Đây là phương thức được sử dụng nhiều nhất trong thực tế xử lý tài sản bảo đảm. Trong các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm, pháp luật hiện nay coi trọng sự thỏa thuận của các bên trong việc sử lý tài sản, đó là: (i) Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên, nếu không có thoả thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật; (ii) Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm, nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật6.

- Bán đấu giá chỉ áp dụng trong trường hợp bắt buộc theo quy định của pháp luật hoặc khi các bên không có thỏa thuận hay không thỏa thuận được về phương thức xử lý tài sản. Khoản 1 Điều 304 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Việc bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản”. Hiện nay, việc bán đấu giá tài sản bảo đảm phải được thực hiện thông qua một tổ chức bán đấu giá. Tổ chức bán đấu giá là một trung tâm dịch vụ công trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc là doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề dịch vụ bán đấu giá tài sản. Tổ chức bán đấu giá phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản bảo đảm. Đối với trường hợp khi các bên không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm, nhưng có thể xác định được giá cụ thể, rõ ràng trên thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (nếu có)[7].

(ii) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm: Theo quy định tại Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2015 có hai trường hợp bên nhận bảo đảm có thể nhận tài sản bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm: (a) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm nếu có thỏa thuận khi xác lập giao dịch bảo đảm; (b) Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ khi bên bảo đảm đồng ý bằng văn bản. Ngoài ra, bên bảo đảm có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên nhận bảo đảm.

Điểm khác biệt giữa phương thức bán tài sản bảo đảm với phương thức nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ là trong trường hợp bán tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có thể bán tài sản bảo đảm cho bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Ngược lại, trong trường hợp nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ thì bên nhận tài sản chính là bên nhận bảo đảm.

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 303 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định phương thức xử lý tài sản trong trường hợp cầm cố, thế chấp mà không quy định về phương thức xử lý tài sản đối các biện pháp bảo đảm khác. Điều này xuất phát từ chỗ, cầm cố, thế chấp là hai biện pháp phát sinh quyền xử lý tài sản trong 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Còn các biện pháp bảo đảm khác nếu nghĩa vụ phát sinh thì tài sản sẽ thuộc về bên nhận bảo đảm (đặt cọc, ký cược, ký quỹ); hoặc không phát sinh tài sản bảo đảm (tín chấp, bảo lãnh); hoặc không có việc xử lý tài sản bảo đảm (bảo lưu quyền sở hữu, cầm giữ tài sản).

(iii) Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ đối với bên thứ ba.

2.6. Thanh toán số tiền có được từ việc xử lý tài sản bảo đảm và thứ tự ưu tiên thanh toán

Khoản 1 Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được thanh toán theo thứ tự ưu tiên theo thứ tự sau đây:

(i) Chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.

(ii) Theo thỏa thuận của các bên. Các bên được nhận tiền thanh toán có thể thỏa thuận thứ tự được ưu tiên thanh toán. Trường hợp thế quyền trong giao dịch bảo đảm thì bên thế quyền chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền.

(iii) Nếu các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.

(iv) Nếu có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước.

(v) Nếu các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm. Ngoài ra, khoản 2 và khoản 3 Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cụ thể việc xử lý các khoản thanh toán từ tài sản bảo đảm được xử lý[8].

Các quy định này được kế thừa từ Điều 338 (Thanh toán tiền bán tài sản cầm cố) và Điều 355 (Xử lý tài sản thế chấp) của Bộ luật Dân sự năm 2005.

3. Một số giải pháp nhằm thực thi hiệu quả các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về xử lý tài sản bảo đảm

Để các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch bảo đảm nói chung và về xử lý tài sản nói riêng áp dụng minh bạch, thuận tiện, Chính phủ cần ban hành Nghị định về giao dịch bảo đảm mới, trong đó, về xử lý tài sản bảo đảm cần quy định theo hướng sau:

Thứ nhất, về tài sản bảo đảm, điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định: “Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất”. Quy định này đã gây khó khăn đối với người có nhu cầu thế chấp chính tài sản hình thành trong tương lai không thực hiện được, vì trên thực tế đa số các tài sản hình thành trong tương lai đều gắn với quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, việc không cho phép thế chấp tài sản hình thành trong tương lai là quyền sử dụng đất dẫn đến bên nhận thế chấp khó khăn trong việc xử lý phần giá trị quyền sử dụng đất này khi xử lý tài sản bảo đảm. Vì vậy, cần có quy định phân biệt đối với tài sản hình thành trong tương lai không gắn với quyền sử dụng đất và tài sản hình thành trong tương lai gắn với quyền sử dụng đất, cách thức xác lập đối kháng với người thứ ba khi thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hình thành trong tương lai mà không thế chấp quyền sử dụng đất.

Thứ hai, về thông tin xử lý tài sản bảo đảm, cần có quy định cụ thể về “thời gian hợp lý” được quy định tại Điều 300 Bộ luật Dân sự năm 2015. Thời gian cụ thể có thể được quy định trong một khung thời gian được phân loại theo các đối tượng dựa vào vị trí địa lý. Ngoài ra, Nghị định mới cũng cần có quy định chi tiết về đối tượng mà bên xử lý tài sản bảo đảm có nghĩa vụ phải thông báo thông tin bao gồm bên bảo đảm và các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Bên cạnh đó, Nghị định cũng cần bổ sung chế tài áp dụng đối với bên xử lý tài sản bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ thông báo.

Thứ ba, cần có quy định về chế tài xử phạt đối với hành vi không tự giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm trong trường hợp nghĩa vụ phát sinh khi có điều kiện thực hiện, tránh tình trạng bên bảo đảm cố tình chây ì, gây khó khăn cho bên nhận bảo đảm để kéo dài thời gian.

Tóm lại, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về xử lý tài sản bảo đảm đã có nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với cuộc sống hiện nay. Tuy nhiên để các quy định này phát huy hiệu lực và hiệu quả trong giao dịch dân sự, đòi hỏi Chính phủ, các Bộ có liên quan cần có văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành theo phương châm “cụ thể, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, thuận tiện cho công tác thanh tra, kiểm tra”.

TS. Võ Đình Toàn

& Đinh Văn Linh

Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp

Tài liệu tham khảo:

[1]. Khoản 3 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

[2]. Lê Vũ Nam, Hoàn thiện quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13 (7/2015) tr. 27.

[3]. Khoản 4 Điều 295 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Gíá trị tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”.

[4]. Theo quy định tại Điều 56 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP các trường hợp sử lý tài sản bảo đảm bao gồm: 1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; 2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; 3. Pháp luật quy định tài sản bảo đảm phải được xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác; 4. Các trường hợp khác do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.

[5]. Khoản 2 Điều 2 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự”.

[6]. Khoản 1 và khoản 2 Điều 58 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

[7]. Điều 65 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

[8]. Khoản 2 và khoản 3 Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“2. Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì số tiền chênh lệch phải được trả cho bên bảo đảm.

3. Trường hợp số tiền có được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau khi thanh toán chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản cầm cố, thế chấp nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm thì phần nghĩa vụ chưa được thanh toán được xác định là nghĩa vụ không có bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận bổ sung tài sản bảo đảm. Bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện phần nghĩa vụ chưa được thanh toán”.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Đây là một trong những nội dung thảo luận được đưa ra tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Nghị quyết của Quốc hội về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh chủ trì ngày 11/4/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm