Thứ hai 09/06/2025 11:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật theo pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì những trường hợp đăng ký kết hôn mà vi phạm các điều kiện về đăng ký kết hôn được coi là kết hôn trái pháp luật và bị xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế việc kết hôn trái pháp luật vẫn xảy ra ở nhiều nơi (đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số) với nhiều hình thức khác nhau như: Vi phạm về độ tuổi kết hôn, việc kết hôn vi phạm sự tự nguyện, kết hôn do bị mất năng lực hành vi dân sự; việc kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.


Trong bài viết, tác giả Nguyễn Thị Phương đã đi sâu phân tích khái niệm và căn cứ xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, từ đó, đưa ra hướng xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật (bao gồm: Hủy kết hôn trái pháp luật; công nhận quan hệ vợ chồng; giải quyết ly hôn) và nêu những bất cập, vướng mắc gặp phải khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.

1. Khái niệm và căn cứ xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có đưa ra các hướng xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, cụ thể là: Hủy kết hôn trái pháp luật, công nhận quan hệ vợ chồng và ly hôn. Tuy nhiên, hai văn bản quy phạm pháp luật trên cũng như những văn bản pháp luật có liên quan lại không giải thích thế nào là xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Theo Từ điển tiếng Việt “xử lý” có nghĩa là “xem xét, giải quyết vụ phạm lỗi nào đó”[1]. Trong trường hợp này, việc kết hôn trái pháp luật là một việc xuất phát từ hành vi kết hôn trái pháp luật, có lỗi và cần phải xử lý. Xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật có nghĩa là khi có sự việc nam, nữ đăng ký kết hôn không đáp ứng được các điều kiện kết hôn và có yêu cầu, thì Tòa án phải xem xét và đề ra hướng giải quyết phù hợp.

Ph. Ăngghen đã từng nhận định: “Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn. Người kết hôn không sáng tạo ra hôn nhân, không phát minh ra hôn nhân, cũng như người bơi lội không sáng tạo, không phát minh ra thiên nhiên và những quy luật về nước, về trọng lực. Vì thế, hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn, mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất hôn nhân”[2]. Do đó, việc kết hôn giữa nam và nữ buộc phải tuân theo quy định của pháp luật và nếu như có sự vi phạm, thì Tòa án xem xét giải quyết xử lý việc kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, thực tế kết hôn trái pháp luật xảy ra ở khá nhiều nơi với nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số, nhưng nếu sự vi phạm này không có ai lên tiếng thì cơ quan nhà nước không thể xử lý. Như vậy một trong những điều kiện tiên quyết để những trường hợp kết hôn trái pháp luật bị xử lý là phải có yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền ghi nhận tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, Tòa án dựa vào các căn cứ sau để giải quyết:

Thứ nhất, vi phạm về độ tuổi kết hôn. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nam phải từ đủ hai mươi tuổi, còn nữ từ đủ mươi tám tuổi trở lên mới được đăng ký kết hôn. Việc nam nữ chưa phát triển đến độ chín muồi về thể chất cũng như tâm sinh lý thì việc kết hôn đó bị coi là trái pháp luật.

Thứ hai, việc kết hôn vi phạm sự tự nguyện. Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Việc kết hôn dựa trên sự tự nguyện là một trong những điều kiện để hôn nhân trở thành hợp pháp và được ghi nhận tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”. Tuy nhiên, ý chí tự nguyện là thuộc chủ quan của mỗi người và người khác khó có thể suy đoán được. Thực tế, đây là một quy định còn gặp nhiều vướng mắc vì cơ quan hộ tịch khó có thể và thậm chí không thể xác định được sự vi phạm điều kiện tự nguyện.

Thứ ba, kết hôn do bị mất năng lực hành vi dân sự. Sở dĩ pháp luật không cho phép những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn vì mục đích của hôn nhân chính là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, nếu những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn sẽ không đảm bảo mục đích của hôn nhân.

Thứ tư, việc kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể: Kết hôn giả tạo; cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

2. Hướng xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật

2.1. Hủy kết hôn trái pháp luật

Hủy kết hôn trái pháp luật hay còn gọi là biện pháp tiêu hôn, đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra định nghĩa hủy kết hôn trái pháp luật. Từ điển tiếng Việt định nghĩa “hủy” là làm cho không tồn tại hoặc làm cho không còn giá trị nữa[3]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của trường Đại học Luật Hà Nội: “Hủy việc kết hôn trái pháp luật được hiểu là biện pháp chế tài của Luật Hôn nhân và gia đình đối với trường hợp nam nữ kết hôn nhưng không tuân thủ đầy đủ các điều kiện được Luật Hôn nhân và gia đình quy định”[4]. Có thể hiểu, hủy kết hôn trái pháp luật là làm cho quan hệ hôn nhân phải chấm dứt không được tồn tại nữa. Việc hủy kết hôn trái pháp luật thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những quan hệ hôn nhân sai trái. Bên cạnh việc chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng biện pháp ly hôn, thì hủy kết hôn cũng là một trường hợp kết thúc một quan hệ hôn nhân.

Hiện nay, vấn đề hủy kết hôn được quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được cụ thể hóa tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn xử lý việc kết hôn trái pháp luật. Cụ thể, Tòa án sẽ quyết định hủy kết hôn trong hai trường hợp:

Một là, nếu tại thời điểm Tòa án giải quyết mà các bên đăng ký kết hôn vẫn chưa đáp ứng được điều kiện kết hôn, cho dù hai bên có yêu cầu Tòa án công nhận là vợ chồng hợp pháp hay yêu cầu ly hôn, thì bất luận thế nào Tòa án cũng sẽ hủy kết hôn trái pháp luật.

Hai là, tại thời điểm giải quyết mà hai bên đã đủ điều kiện kết hôn, thì Tòa án sẽ hủy kết hôn khi một hoặc cả hai bên có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật; hoặc một bên yêu cầu công nhận quan hệ vợ chồng hoặc yêu cầu ly hôn, còn bên kia không có yêu cầu. Như vậy, mọi rào cản về điều kiện kết hôn không còn nữa và việc kết hôn trái pháp luật có thể được Nhà nước thừa nhận, nhưng các bên không còn muốn duy trì hoặc một bên không có biểu hiện của sự muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân, thì Tòa án sẽ hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Như vậy, hủy kết hôn trái pháp luật là một biện pháp chế tài được áp dụng đối với các chủ thể thực hiện hành vi vi phạm các điều kiện kết hôn và pháp luật về hôn nhân và gia đình có thái độ phủ định quan hệ hôn nhân đó, buộc các chủ thể phải chấm dứt tình trạng sống chung với nhau như vợ chồng. Tuy nhiên, hủy kết hôn trái pháp luật để lại những hậu quả nhất định và các chủ thể phải gánh chịu tất cả những gì bất lợi đối với bản thân, con cái cũng như về tài sản. Với hướng xử lý hủy kết hôn trái pháp luật hiện nay, thiết nghĩ, cần phải xem xét kỹ rằng, có nên chỉ dựa vào ý chí mong muốn của hai người hay không, mà nên xem xét quy định thêm những tiêu chí khác nữa.

2.2. Công nhận quan hệ vợ chồng

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc công nhận là vợ chồng hợp pháp ngay cả khi việc kết hôn không đáp ứng được điều kiện kết hôn đã có quy định rõ ràng. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 11: “Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó”. Điều này cũng được hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: “Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình thì Tòa án xử lý như sau: (a) Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân, thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn”.

Như vậy, để được Tòa án thừa nhận là vợ chồng thì các bên phải đủ điều kiện kết hôn tại thời điểm Tòa án giải quyết, đồng thời, pháp luật đề cao sự công nhận của cả đôi bên, chỉ cần một bên không đồng ý thì coi như quan hệ hôn nhân đó không được Tòa án thừa nhận. Tòa án không xem xét đến quá trình chung sống của các bên trong quá trình kể từ lúc đăng ký kết hôn cho tới lúc giải quyết liệu điều đó có thỏa đáng không? Bởi nguyên nhân dẫn đến cho quan hệ hôn nhân bị hủy có thể xuất phát từ một bên. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho đôi bên, đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em, thiết nghĩ, Tòa án cần phải xem xét dưới nhiều góc độ để có cái nhìn toàn diện, từ đó có quyết định thấu tình đạt lý.

2.3. Giải quyết ly hôn

Bên cạnh hướng xử lý hủy bỏ hoặc công nhận là vợ chồng hợp pháp, thì pháp luật hôn nhân còn có quy định cho các bên tiến hành ly hôn. Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ ghi nhận hai hướng xử lý hủy và công nhận. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thêm hướng xử lý ly hôn. Cụ thể, điểm c khoản 2 Điều 4 của Thông tư này quy định: “Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình thì Tòa án xử lý như sau: ... c) Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn, còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân, thì Tòa án giải quyết cho ly hôn...”.

Khi đủ điều kiện kết hôn và cả hai bên hoặc một bên mong muốn ly hôn, thì Tòa án sẽ giải quyết ly hôn cho họ. Thực ra, nếu Tòa án giải quyết ly hôn cho các bên cũng đồng nghĩa với việc Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân của các bên là hợp pháp. Bởi theo pháp luật hôn nhân và gia đình, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Ly hôn chỉ dành cho những quan hệ hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

3. Bất cập, vướng mắc gặp phải khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

3.1. Về giải quyết công nhận quan hệ vợ chồng

Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành xem xét công nhận quan hệ vợ chồng ngay cả khi đăng ký kết hôn trái pháp luật dựa vào điều kiện kết hôn đã thỏa mãn tại thời điểm Tòa án giải quyết và được sự công nhận của cả hai bên. Khác với các quy định trước đây, pháp luật hiện hành không căn cứ vào quá trình chung sống của các bên như thế nào mà xem xét công nhận nếu đã đủ điều kiện đăng ký kết hôn và phải có sự đồng ý của cả hai bên. Cụ thể điểm a khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP: “Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình thì Tòa án xử lý như sau: a) Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân, thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu một bên (vợ hoặc chồng) đã chết, họ không thể bày tỏ ý chí của mình được hoặc trường hợp bên còn lại không muốn công nhận quan hệ vợ chồng để được kết hôn với người khác, thì Tòa án sẽ xử lý thế nào? Xin đơn cử ví dụ:

Năm 2017, TAND huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình thụ lý đơn yêu cầu với nội dung như sau: anh Nguyễn Đức T sinh năm 1964 (chết năm 2017) và chị Nguyễn Thị T có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện M, tỉnh Hà Tây năm 1985. Ngày 21/4/2008, anh T nộp đơn xin ly hôn với chị T và TAND huyện M, tỉnh Hà Tây xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh và chị T. Tuy nhiên, trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp giữa anh T và chị T, thì anh T đã làm thủ tục đăng ký kết hôn với chị H tại UBND xã K cụ thể vào năm 1996. Căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình, việc anh T kết hôn với chị H trong khi đang tồn tại hôn nhân hợp pháp giữa anh T và chị T là kết hôn trái pháp luật. Chị Nguyễn Thị H cũng thừa nhận việc kết hôn của mình là trái pháp luật, nhưng chị có đề nghị Tòa án căn cứ vào khoản 2, Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP để công nhận hôn nhân giữa chị và anh T từ năm 2008 (thời điểm anh T và chị T ly hôn). Tuy nhiên, Tòa án xét thấy, chỉ có mình chị H có yêu cầu công nhận (vì hiện nay anh T đã chết) và không thỏa mãn yếu tố “hai bên kết hôn cùng yêu cầu”. Do đó, Tòa án không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu công nhận quan hệ vợ chồng và ra quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật[5].

Rõ ràng, việc hủy kết hôn trong tình huống này không mang lại ý nghĩa gì cả, trong khi cuộc sống giữa anh T và chị H không có biểu hiện bất hòa hay mâu thuẫn trong suốt quãng thời gian họ chung sống với nhau. Và hơn nữa, yếu tố trái pháp luật nay cũng không còn nữa, anh T và chị T đã ly hôn từ năm 2008. Tuy nhiên, muốn được công nhận là vợ chồng hợp pháp, thì pháp luật đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai bên, nhưng hiện tại anh T đã không còn và điều đó có nghĩa anh T không thể nào thể hiện được ý chí của mình được. Theo quan điểm của tác giả với những trường hợp này, Tòa án nên thừa nhận quan hệ hôn nhân của chị H và anh T là vợ chồng hợp pháp kể từ thời điểm anh T và chị T ly hôn. Thiết nghĩ, nên tạo cơ chế giải quyết linh hoạt, mềm dẻo cho Tòa án Việt Nam cân nhắc việc công nhận quan hệ vợ chồng khi đăng ký kết hôn trái pháp luật.

3.2. Khi Tòa án dựa vào yêu cầu của một bên để xử lý

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn xử lý việc kết hôn trái pháp luật dựa vào yêu cầu của các bên trong việc kết hôn, song việc căn cứ vào yêu cầu của chủ thể kết hôn trái pháp luật sẽ gặp một số bất cập. Xin đơn cử ví dụ: Chị Linh và anh Bình yêu nhau và có đăng ký kết hôn. Sau khi sinh con, anh Bình thường xuyên vắng nhà không có lý do. Chị Linh nghi ngờ thì bị anh chồng mắng chửi và đánh đập, sau đó anh Bình đã bế con trai bỏ đi. Đi tìm con, chị Linh vô cùng bàng hoàng phát hiện ra trước khi kết hôn với mình, anh Bình đã có vợ là Ngọc. Chị Linh đã nộp đơn xin hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh Bình[6]. Việc hủy kết hôn trái pháp luật giữa anh Bình và chị Linh là đúng với quy định của pháp luật. Xét ở khía cạnh nào đó, để bị hủy kết hôn trái pháp luật lỗi thuộc về anh Bình do anh Bình đã lừa dối chị Linh và chị Linh hoàn toàn không biết anh đã từng kết hôn. Tình huống mà tác giả phân tích đang đề cập đến yếu tố lỗi và trách nhiệm của người có lỗi. Hiện nay, pháp luật hôn nhân và gia đình chưa có điều khoản nào quy định trách nhiệm của người có lỗi làm cho quan hệ hôn nhân trở nên bất hợp pháp và bị hủy. Đồng thời, việc xử lý việc kết hôn trái pháp luật hiện nay cũng không xem xét tới yếu tố lỗi của các bên.

Để xử lý việc kết hôn trái pháp luật như hiện nay, bên cạnh việc Tòa án căn cứ vào đơn yêu cầu của các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật và các điều kiện kết hôn trái pháp luật thì cần phải xem xét thêm yếu tố lỗi của họ. Cụ thể ở đây là lỗi để việc kết hôn đáng lẽ hợp pháp nhưng trở thành trái pháp luật và bị hủy. Đặc biệt đối với những trường hợp một bên yêu cầu công nhận, một bên lại yêu cầu hủy nhưng xét thấy họ đã đủ điều kiện kết hôn và mục đích của người yêu cầu hủy kết hôn là để được đăng ký kết hôn với người khác thì Tòa án phải cân nhắc để giải quyết. Hay nói cách khác, Tòa án dựa vào lỗi để xem xét công nhận quan hệ hôn nhân có nguy cơ bị hủy bỏ để từ đó có cơ sở xử lý việc kết hôn trái pháp luật về sau.

ThS. Nguyễn Thị Phương

Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh





[1]. http://tratu.coviet.vn/hoc-tieng-anh/tu-dien/lac-viet/all/x%E1%BB%AD+l%C3%BD.html, truy cập ngày 8/6/2020.

[2]. C.Mác - Ph.Ăngghen (1978), Bản dự luật về ly hôn, tập 1, Nxb. Sự thật Hà Nội, tr.128.

[3]. https://www.rung.vn/dict/vn_vn/Hu%E1%BB%B7, truy cập ngày 09/6/2020.

[4]. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

[5]. Quyết định số 01/2017/HNGĐ-ST ngày 29/8/2017 về “V/v hủy kết hôn trái pháp luật” của TAND huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

[6]. Phan Thân, “Vợ chồng lách luật để kết hôn với nhiều người cùng lúc”, https://vnexpress.net/doi-song/vo-chong-lach-luat-de-ket-hon-voi-nhieu-nguoi-cung-luc-3751149.html, truy cập ngày 09/6/2020.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm